Monday, April 25, 2016

BẢY TỘI LỖI XÃ HỘI



GS Nguyễn Văn Tuấn

Mahatma Gandhi là một chính khách vĩ đại, một nhà hiền triết của Ấn Độ, người được Liên Hiệp Quốc vinh danh thật sự. Chẳng hiểu sao mỗi khi nghĩ về hiện tình của đất nước làm tôi nhớ đến Gandhi, người đã từng cảnh báo thế giới về cái mà ông gọi là Bảy Tội Lỗi Xã Hội – Seven Social Sins – mà ông viết ra từ năm 1925, đúng 90 năm trước:

1. Làm giàu mà không nhờ lao động – Wealth without work.

2. Hưởng lạc thú mà không có lương tâm – Please without conscience.

3. Có kiến thức mà không có nhân cách – Knowledge without character.

4. Làm thương mại mà không có đạo đức – Business without morality/ ethics.

5. Khoa học mà không có nhân văn – Science without humanity.

6. Có tôn giáo mà không thờ phượng –  Religion without sacrifice.

7. Làm chính trị mà không có nguyên tắc – Politics without principles.

Chúng ta thử xem xét nhanh những tội lỗi này xem sao:

1. LÀM GIÀU KHÔNG NHỜ LAO ĐỘNG 

Hiện nay, có một nhóm người làm giàu rất nhanh, không phải nhờ kinh doanh giỏi hay làm việc tốt, mà qua quan hệ và hậu duệ. Họ chỉ cần dùng mánh khoé để lôi kéo, "quy hoạch" nhân sự và thế là tạo ra tài sản. Một số thì làm giàu nhờ quan hệ nên tiếp cận được và khai thác tài nguyên thiên nhiên. Một số khác thì làm ra tiền nhờ vào lợi dụng thông tin trong để thao túng thị trường chứng khoán. Một số khác thì làm giàu nhờ tham nhũng, chẳng cần tốn công lao động gì cả.

2. HƯỞNG LẠC THÚ MÀ KHÔNG CÓ LƯƠNG TÂM

Đây là những người ích kỷ, lúc nào cũng muốn hưởng lợi cho cá nhân mà không quan tâm đến phúc lợi của người khác. Đối với họ, câu hỏi đầu tiên là "Tôi làm cái này sẽ có lợi gì cho tôi, việc này có giúp tôi thăng tiến trong sự nghiệp, có làm cho tôi giàu thêm?" và quyết định hành động của họ cũng dựa trên câu hỏi đó. Họ không quan tâm đến người khác, không cần biết đến văn hoá "to give and to take", không cần có trách nhiệm xã hội và chẳng biết đến hiến dâng là gì. Những người này rất nhiều ở Việt Nam.

3. CÓ KIẾN THỨC MÀ KHÔNG CÓ NHÂN CÁCH

Có ít kiến thức đã là một thiệt thòi, có khi là nguy hiểm, nhưng có nhiều kiến thức mà thiếu nhân cách thì còn nguy hiểm hơn. Chỉ học cho nhiều để có kiến thức mà không cần quan tâm đến cái nội tâm, thì chẳng khác gì đưa một chiếc xe hơi thể thao cho một thiếu niên. Điều này cũng xảy ra trong thế giới khoa bảng, nơi mà người ta thường quan tâm đến sản sinh ra tri thức mới nhưng ít khi nào để ý đến khía cạnh nhân văn của tri thức. Ở Việt Nam, có nhiều người đi học để tiếp thu kiến thức không phải vì dấn thân xã hội, mà vì muốn ăn trên ngồi trốc. Họ hám danh chứ không phải ham học.

4. LÀM THƯƠNG MẠI MÀ KHÔNG CÓ ĐẠO ĐỨC

Ngay cả những nhà kinh tế học cổ điển cũng xem đạo đức là nền tảng của thành công trong kinh tế. Cách mà chúng ta đối xử với người khác trong tinh thần bác ái, phục vụ và cống hiến là nền tảng của kinh tế, xã hội. Nhưng ở Việt Nam hiện nay, các nhà quan sát cho rằng Việt Nam đang ở trong thời kỳ "chủ nghĩa tư bản man rợ, rừng rú", chứ không phải "chủ nghĩa tư bản văn minh". Những người nhận định như thế dựa trên quan sát rằng có những nhóm lợi ích tỏ ra tham lam vô độ, luôn luôn muốn thao túng kinh tế. Có người cho rằng các nhóm lợi ích, nhóm làm giàu bất chính đang tàn phá đất nước.

5. KHOA HỌC MÀ KHÔNG CÓ NHÂN VĂN

Kinh doanh mà không dựa trên nền tảng đạo đức xã hội và không xem trọng trách nhiệm xã hội là loại kinh doanh nguy hiểm. Tương tự, trong khoa học, tiêu chuẩn đạo đức và trách nhiệm cũng là một tiêu chí quan trọng. Một công trình nghiên cứu cho dù mang tính khả thi cao và có ý tưởng tốt, nhưng làm phương hại đến cộng đồng và xã hội vẫn không được đánh giá là đạt chuẩn mực. Chính vì bản chất đạo đức của khoa học, nhà khoa học còn phải có trách nhiệm với xã hội, vì nhà khoa học cũng chỉ là một thành viên trong xã hội, không thể nào đứng ngoài hay đứng cao hơn xã hội. Công trình tạo ra chủng virus mới của Trung Quốc có thể đó là một thành tựu về kĩ thuật, nhưng không đạt tiêu chuẩn về đạo đức và trách nhiệm xã hội vì thành tựu đó chẳng đem lại phúc lợi gì cho xã hội hay giúp giảm sự đe dọa của một đại dịch. Ở Việt Nam, khoa học chưa phát triển, nhưng đây đó có nhiều người ta dùng khoa học để làm những chuyện thiếu đạo đức.

6. CÓ TÔN GIÁO MÀ KHÔNG CÓ THỜ PHỤNG

Nhìn từ ngoài và từ xa, Việt Nam là một đất nước ngoan đạo, với số lượng chùa chiền và nhà thờ khá nhiều. Người ta đi lễ hội và đi chùa cũng rất nhiều. Nhưng nếu nhìn kỹ thì việc viếng chùa của họ không phải là vì thờ phụng, mà chủ yếu là mê tín, và hối lộ thần thánh. Có thể nói rất nhiều người đến chùa để cầu thần thánh ban cho chức tước và hanh thông trong sự nghiệp, chứ chẳng phải để thờ phượng và hiến dâng. Ngay cả những người trụ trì trong chùa chưa chắc là người tu hành thật, mà có thể đang đóng một vai diễn nào đó để phục vụ cho một thế lực đang chống lưng họ. Có thể nói rằng cái nền tảng tôn giáo ở Việt Nam đã bị xói mòn từ hơn 40 năm qua.

7. LÀM CHÍNH TRỊ MÀ KHÔNG CÓ NGUYÊN TẮC

Đối với Gandhi, những người ham quyền lực thường hành động bất chấp nguyên lý và chân lý. Những người cố vị (nhất định bám ghế) bằng mọi giá và mọi cách là những chính trị gia không có đạo đức. Những nguyên tắc trong chính trị mà Gandhi nghĩ đến bao gồm giúp người dân đi đến những lựa chọn sáng suốt, đối xử với người dân một cách công bằng, giữ lời hứa và tuân thủ những gì đã đồng ý, không được nói dối và xuyên tạc, và tôn trọng nhân quyền. Ở Việt Nam, những người như thế này thật là... xưa nay hiếm.
Đối chiếu lại thực tế những gì đang xảy ra, có thể nói là Việt Nam đang – không nhiều thì ít – phạm phải tất cả 7 tội lỗi này. Một thiết chế xã hội tạo ra những con người làm giàu không nhờ lao động và bất chấp đạo đức, những người thích hưởng thụ trên sự đau khổ của nhân dân, những người bằng cấp đầy mình nhưng thiếu nhân cách, những người buôn bán và hối lộ thần thánh, những người cầm quyền mà chẳng quan tâm đến sự thật và lợi ích của xã hội và dân tộc. Bảy nhóm người này hay 7 cái tội lỗi xã hội này đang làm cho đất nước Việt Nam tiêu điều và khó sánh vai với các quốc gia văn minh trên thế giới. 





Friday, April 8, 2016

HẠNH PHÚC VÀ NIỀM VUI

WHAT IS HAPPINESS? HẠNH PHÚC LÀ GÌ?

HẠNH PHÚC VÀ NIỀM VUI

Sự khác nhau giữa niềm vui và hạnh phúc đôi khi khó phân biệt và vi tế. Hạnh phúc tỏa sáng bộc phát dưới dạng niềm vui. Một niềm hân hoan an lạc nội tâm không nhất thiết được biểu lộ một cách phô trương mà thông qua một thoáng cảm nhận đầy ý nghĩa về giá trị của giây phút hiện tại. Những điều ngạc nhiên, những niềm vui mạnh mẽ và bất ngờ cũng làm hạnh phúc tăng lên như những bông hoa nở rộ làm tăng vẻ đẹp của mùa xuân vậy.

Tuy nhiên, không phải bất cứ niềm vui nào cũng từ hạnh phúc mà ra. Như Christopher André đã nhấn mạnh trong cuốn sách rất có tính thuyết phục của ông về tâm lý con người khi hạnh phúc: “Có những thú vui không lành mạnh, khác xa trạng thái an lạc của hạnh phúc, ví dụ như thích thú trả thù […] Cũng có những trạng thái hạnh phúc bình lặng, đôi khi rất khác với sự phấn khích của vui sướng […] Người ta nhảy lên vì vui mừng chứ không nhảy lên vì hạnh phúc.”

Khó mà thống nhất với nhau về định nghĩa hạnh phúc nhưng chúng ta đã chỉ rõ điều gì là hạnh phúc chân thật. “Niềm vui” là một từ rất mơ hồ bởi vì như nhà tâm lý học Paul Ekman đã miêu tả, nó gắn với những xúc cảm đa dạng như những khoái cảm thuộc về giác quan, sự thích thú (từ mỉm cười tới cười ra nước mắt), trạng thái hài lòng, vừa ý (thỏa mãn một cách âm ỉ), hưng phấn (trước điểu mới lạ hoặc trước một thách thức), xả hơi (sau khi đã bị sợ hãi, lo lắng hay thậm chí cả thích thú nữa), ngây ngất (trước điều ta ngỡ ngàng và thán phục, hoặc vượt quá lý trí của chúng ta), say sưa (làm tâm hồn ta bay bổng), hớn hở (khi hoàn thành một nhiệm vụ khó khăn, giành được một chiến công), tự hào rạng rỡ (khi con cái ta nhận một phần thưởng xuất sắc), biết ơn (đánh giá quý trọng một hành động vị tha được dành cho mình) và sự khoái chí tàn bạo (khi sung sướng trên sự đau khổ của người khác bằng cách trả thù chẳng hạn); có thể liệt kê thêm các trạng thái khác như hân hoan, đắm say…

Mỗi loại cảm xúc được kể trong danh sách trên đều chứa đựng niềm vui, đa phần thể hiện bằng nụ cười, bằng vẻ mặt và giọng nói đặc biệt. Nhưng để một bộ phận gắn liền hoặc góp phần vào hạnh phúc, cảm xúc phải được giải phóng khỏi mọi tình cảm tiêu cực. Chỉ cần giận dữ hoặc ghen tuông nổi lên cũng đủ để niềm vui tắt ngấm. Chỉ cần hơi có thái độ bám chấp, ích kỷ hoặc kiêu mạn là niềm vui dần tắt lịm đi.

Để niềm vui có thể kéo dài và chín muồi mộy cách êm ả, để cho nó trở thành “một trạng thái rạng ngời, sung mãn” cần phải thêm vào đó những tố chất cấu thành một niềm hạnh phúc chân thật như trí tuệ, thiện tâm, giảm thiểu dần những cảm xúc tiêu cực vá chấm dứt những thói đỏng đảnh của “cái tôi” – “ego” – “self”.