Thursday, August 31, 2017

TỰ NƯƠNG TỰA VÀO CHÍNH MÌNH – TỰ MÌNH LÀ HÒN ĐẢO

Trong Kinh Đại Bát Niết Bàn [Mahāparinibbāna-sutta], Đức Phật dạy:
- Hãy lấy chính mình là hòn đảo [chỗ dựa] cho chính mình, lấy chính mình là nơi nương tựa của chính mình và đừng nương tựa vào người khác.

Chúng ta không thể nào hiểu được toàn bộ nghĩa “lấy bản thân mình” và ý nghĩa của lời khuyên của Đức Phật dành cho Ānanda. Tôn giả A Nan [Đà] vừa là học trò, vừa là thị giả của Đức Phật, đồng thời cũng là em chú bác ruột với Đức Phật. Khi Đức Phật đạt Giác Ngộ vào đêm Rằm tháng 4, lúc Đức Phật 35 tuổi, thì Tôn giả A Nan [Đà] được sinh ra, trừ phi chúng ta đi vào xem xét nguồn gốc và ngữ cảnh lúc những lời này được nói ra:

Đức Phật lúc đó đang ở một ngôi làng tên là Beluva, khoảng ba tháng trước khi Bát Niết Bàn. Lúc đó, do Đức Phật đã 80 tuổi và đang chịu đựng bệnh đau hiểm nghèo, gần như sắp chết [māranantika].

Nhưng Đức Phật nghĩ rằng sẽ không hay nếu Đức Phật Bát Niết Bàn mà không để lại lời khuyên cho những đệ tử gần gũi và thân cận của Người. Vì vậy, với sự can đảm và quyết tâm, Đức Phật chịu đựng đau đớn, cố gắng vượt qua bệnh đau và hồi phục. Nhưng sức khỏe của Đức Phật vẫn còn yếu. Sau khi hồi phục, Đức Phật ngồi dưới bóng cây bên trước chỗ Đức Phật lưu trú.

Ānanda, người hầu cận, thị giả tận tụy nhất của Đức Phật đến bên người thầy đáng kính, ngồi xuống gần Đức Phật và thưa rằng:
- Thưa Đức Thế Tôn! Con đã chăm sóc sức khỏe cho Đức Thế Tôn, con đã chăm sóc Đức Thế Tôn khi Đức Thế Tôn bệnh yếu. Nhưng khi nhìn thấy bệnh đau của Đức Thế Tôn, bầu trời trở nên tối mờ đi trong con, các giác quan của con không còn biết rõ ràng nữa. Còn một chút an ủi là: con nghĩ Đức Thế Tôn sẽ không đi xa trước khi Như Lai để lại một số di huấn cho Tăng Đoàn.

Và rồi, Đức Phật, với tâm bi mẫn, từ ái đã nhẹ nhàng nói với người thị giả đáng yêu và tận tụy của mình:
- Ānanda [A Nan Đà], Tăng Đoàn còn đang trông đợi gì ở Như Lai nữa? Như Lai đã giảng dạy Giáo Pháp [Dhamma – Phật Pháp] mà không hề phân biệt cái gì là công khai hay bí truyền. Về Chân Lý, Như Lai không có gì được gọi là còn trong nắm tay khép chặt của người thầy [ācariya-mutthi]. Chắc chắn, này Ānanda, nếu có bất cứ ai nghĩ rằng người ấy sẽ lãnh đạo Tăng Đoàn và Tăng Đoàn nên phụ thuộc vào người ấy và hãy để người ấy đưa ra chỉ thị. Nhưng Như Lai không có ý nghĩ như vậy.

- Vậy tại sao ta phải để lại di huấn về vấn đề Tăng Đoàn?

Bây giờ ta đã già, này Ānanda, đã tám mươi tuổi rồi. Giống như một chiếc xe đã hư cũ cần phải sửa chữa liên tục mới chạy được, vì vậy, hình như đối với ta, thân thể của Như Lai phải được sửa chữa liên tục mới giữ được.
- Vì thế, Ānanda, hãy lấy chính mình là hòn đảo [chỗ dựa] cho chính mình, lấy chính mình, không phải ai khác, là nơi nương tựa của chính mình; lấy Giáo Pháp [Dhamma] là hòn đảo [chỗ dựa], Giáo Pháp làm nơi nương tựa, không phải cái gì khác làm nơi nương tựa của mình.

Những điều Đức Phật muốn truyền thụ cho Ānanda đã rõ ràng. Ānanda đã rất buồn và trở nên u sầu. Người thị giả nghĩ rằng tất cả họ sẽ trở nên đơn độc, không người giúp đỡ, không nơi nương tựa, không còn ai dẫn dắt sau khi vị Đạo sư qua đời. Nên Đức Phật bèn an ủi, khuyến khích và động viên tôn giả Ānanda. Người nói rằng tất cả họ nên dựa vào chính bản thân mình và dựa vào Giáo Pháp mà Đức Phật đã giảng dạy, chứ không dựa vào ai khác hay bất cứ thứ gì khác. Đây chính là vấn đề của những lời dạy ấy.

Therefore, Ananda, be islands unto yourselves, refuges unto yourselves, seeking no external refuge; with the Dhamma as your island, the Dhamma as your refuge, seeking no other refuge. And how, Ananda, is a bhikkhu an island unto himself, a refuge unto himself, seeking no external refuge; with the Dhamma as his island, the Dhamma as his refuge, seeking no other refuge? When he dwells contemplating the body in the body, earnestly, clearly comprehending, and mindfully, after having overcome desire and sorrow in regard to the world; when he dwells contemplating feelings in feelings, the mind in the mind, and mental objects in mental objects, earnestly, clearly comprehending, and mindfully, after having overcome desire and sorrow in regard to the world, then, truly, he is an island unto himself, a refuge unto himself, seeking no external refuge; having the Dhamma as his island, the Dhamma as his refuge, seeking no other refuge. Those bhikkhus of mine, Ananda, who now or after I am gone, abide as an island unto themselves, as a refuge unto themselves, seeking no other refuge; having the Dhamma as their island and refuge, seeking no other refuge: it is they who will become the highest, if they have the desire to learn.

Mahaparinibbana Sutta 2:33-35.




Monday, August 28, 2017

VĂN HÓA ĐỌC

天子重英豪,
文章教爾曹;
萬般皆下品,
惟有讀書高。
Thiên tử trọng anh hào,
Văn chương giáo nhĩ tào;
Vạn ban giai hạ phẩm,
Duy hữu độc thư cao.

 
Nhà vua coi trọng người hiền tài hào kiệt.
Văn chương dạy cho chúng ta [những điều tốt đẹp, sâu sắc].
Tất cả các ngành nghề đều phẩm chất bình thường.
Duy chỉ có đọc sách là hành động cao quý.

Saturday, August 26, 2017

CHUYẾN VƯỢT BIỂN CẦU PHÁP CỦA VỊ QUỐC SƯ NHẬT BẢN


Từ năm 18 tuổi, Viên Nhĩ Biện Viên đã là một danh tăng ở đất nước Nhật Bản, được mọi người ngưỡng mộ vì kiến thức uyên thâm. Thế nhưng, không vừa ý, thỏa mãn với chính mình, Viên Nhĩ đã lặn lội sang tận Trung Hoa để cầu pháp. Và cuộc hành trình vượt biển cầu pháp của vị Quốc sư đầu tiên trong lịch sử Nhật Bản cho tới nay vẫn còn là một huyền thoại khiến nhiều người phải thán phục...

Viên Nhĩ Biện Viên sinh năm 1202, mất năm 1280, vốn là người họ Bình, tên là Biện Viên, tự là Viên Nhĩ, vì vậy người đời sau mới gọi ông là Viên Nhĩ Biện Viên. Từ nhỏ, Viên Nhĩ đã thông minh hơn người. Lúc mới lên 5 tuổi đã bắt đầu theo học thầy Nghiêu Biện, một đại sư nổi tiếng thời bấy giờ.

Năm 12 tuổi, Viên Nhĩ theo học giáo nghĩa của Thiên Thai Tông. Tới năm 15 tuổi thì đã tinh thông tất cả mọi giáo lý kinh sách.Chuyện kể rằng, có lần Viên Nhĩ ngồi dưới nghe thầy giảng tới một câu thì thấy thầy ngập ngừng nhiều lần, không biết giảng tiếp thế nào nữa.Cậu học trò mới 15 tuổi Viên Nhĩ đã bước lên phía trước thay thầy giảng giải câu văn trong sách kinh điển một cách trôi chảy khiến tất cả mọi người có mặt trong lớp học hôm đó đều phải kinh ngạc.

Năm 18 tuổi, Viên Nhĩ xuống tóc, xuất gia ở chùa Viên Thành, quyết tâm theo học giáo lý của dòng Thiên Thai Tông. Sau đó, trong khoảng thời gian kéo dài 3 năm, Viên Nhĩ tới kinh đô và chuyên tâm học kinh điển của Nho Giáo. Song song với các giáo lý trên, Viên Nhĩ cũng tu tập theo Mật giáo của Thiên Thai Tông và được ấn chứng theo nghi lễ tông này năm 1228.
Vào thời điểm lúc bấy giờ, Viên Nhĩ được coi là người tinh thông cả giáo lý bên trong lẫn bên ngoài Phật Giáo, một đại sư cực kỳ uyên bác với kiến thức mà ai cũng phải kính nể.

Tuy nhiên, Viên Nhĩ lại cảm thấy rằng những kiến thức mà ông học được trong kinh điển trong và ngoài Phật Giáo đều chẳng có tác dụng gì với việc sống chết, nó chỉ giống như hạt muối giữa biển khơi mênh mông mà thôi. Quyết tâm mở rộng kiến thức của mình, Viên Nhĩ quyết định rời khỏi chùa Viên Thành, tới chùa Trường Lạc, bái thiền sư Vinh Triều là đệ tử nổi tiếng của Vinh Tây thiền sư, cùng Vinh Triều nghiên cứu Thiền Tông.

Vinh Tây là thiền sư Nhật Bản từng lặn lội sang Trung Quốc cầu học. Vinh Triều sau khi theo Vinh Tây học Thiền đã khai sáng chùa Trường Lạc dạy thiền, danh tiếng lừng lẫy một vùng. Lúc bấy giờ, Viên Nhĩ đang tìm lối thoát trong tư tưởng nên khi nghe danh Vinh Triều đã không quản ngại đường xá xa xôi, tìm tới chùa Trường Lạc.

Khi đó, Phật Giáo đã tới Nhật Bản từ lâu, song Thiền Tông thì vẫn chưa được truyền bá một cách rộng rãi. Chính vì vậy, những danh tăng thời bấy giờ nhiều người rất có hứng thú với Thiền Tông. Viên Nhĩ cũng không nằm ngoài số này.

Là một người đọc thông kinh điển trăm nhà, Viên Nhĩ cũng rất háo hức với hình thức và những quan niệm rất mới lạ của Thiền Tông so với Phật Giáo kinh điển. Tìm hiểu Thiền Tông chính là lý do lớn nhất khiến Viên Nhĩ quyết định rời Nhật Bản, đến Trung Hoa để cầu Phật Pháp.

Năm 1235, Viên Nhĩ quyết định lên đường tới Trung Hoa. Sau nhiều ngày lênh đênh trên biển, thuyền của Viên Nhĩ đã tới đất Minh Châu của Nam Tống.Đến mảnh đất mới, lại thêm tâm ham học hỏi, Viên Nhĩ đã đi rất nhiều nơi, nơi đâu ông cũng dừng lại để xin được chỉ giáo. Nơi đặt chân đến đầu tiên của Viên Nhĩ chính là Luật viện Cảnh Đức ở Minh Châu. Tại đây, Viên Nhĩ nghe luật sư Thiện Nguyệt giảng về giới luật.
Sau khi rời  khỏi Cảnh Đức, Viên Nhĩ lại tới xin học đạo với Si Tuyệt Đạo Xung tại chùa Cảnh Đức ở núi Thiên Đồng. Sau khi học Si Tuyệt Đạo Xung, Viên Nhĩ lại tới Hàng Châu học giáo pháp của Thiên Thai tông với một đại sư nổi tiếng của dòng Thiên Thai tông ở Trung Quốc là Bá Đình Thiện Nguyệt.Thấy Viên Nhĩ có tâm cầu học, Bá Đình Thiện Nguyệt đã đem tất cả hiểu biết của mình về bốn bộ kinh kinh điển của Thiên Thai Tông truyền cho Viên Nhĩ.
Tuy nhiên, Viên Nhĩ cũng không ở lại lâu bên Bá Đình Thiện Nguyệt. Ít lâu sau đó, Viên Nhĩ lại cáo từ Bá Đình Thiện Nguyệt để tới núi Nam Bính theo học Tiếu Ông Diệu Thậm ở chùa Tịnh Từ và Thạch Điền Pháp Huân ở chùa Linh Ẩn. Trong suốt thời gian này, Viên Nhĩ qua lại liên tục ở hai chùa Tịnh Từ và Linh Ẩn.

Trong thời gian ở chùa Linh Ẩn, Viên Nhĩ đã may mắn gặp được Thôi Canh Đức Ninh, đệ tử của thiền sư Vô Chuẩn Sư Phạm. Thôi Canh Đức Ninh thấy Viên Nhĩ là người có chí hướng hơn người, mới nói với Viên Nhĩ rằng:

- Danh sư trong thiên hạ ngày nay chỉ có một mình thầy ta là Vô Chuẩn Sư Phạm, vì sao cậu không tới đó học mà cứ phải chạy khắp nơi này tới nơi khác như vậy cho cực nhọc?
Nghe theo lời khuyên của Thôi Canh Đức Ninh và cũng là vì tò mò, Viên Nhĩ đã lặn lội lên Kính Sơn để cầu học thiền sư Vô Chuẩn Sư Phạm.
Vô Chuẩn Sư Phạm là thiền sư nổi tiếng thời Nhà Nam Tống, được người ta ví như bậc Thái Sơn, Bắc Đẩu của Phật Giáo lúc bấy giờ. Vô Chuẩn Sư Phạm cũng là nhân vật trung tâm của hệ phái Dương Kỳ thuộc tông Lâm Tế của Thiền tông.

Khi Viên Nhĩ tìm tới Kinh Sơn cầu học Vô Chuẩn Sư Phạm, vừa nhìn thấy vị hòa thượng Nhật Bản, Vô Chuẩn đã biết không phải là người bình thường, vì vậy không những nhận Viên Nhĩ làm đệ tử mà còn cho phép Viên Nhĩ trở thành người hầu cận bên mình hằng ngày để tiện việc giảng pháp. Một hôm để gợi ý cho sự giác ngộ của Viên Nhĩ, Vô Chuẩn Sư Phạm đã đưa cho Viên Nhĩ công án nổi tiếng “Chiếc lược bí của Thủ Sơn”.

Công án này nói rằng, thiền sư Thủ Sơn Tỉnh Niệm đã đem một cái lược trúc hỏi một vị hành tăng rằng nên gọi nó là cái gì. Nếu như gọi là cái lược trúc thì người đó bị mắc phải sự cố chấp, chỉ biết tuân theo lối mòn người ta sắp sẵn từ trước.

Nếu như nói rằng nó chỉ là một đoạn trúc, tạm gọi là cái lược trúc thì thực chất vẫn gọi nó là cái lược trúc. Dùng lời gọi nó cũng không được, mà không gọi nó cũng không xong, vậy rốt cuộc thì nên gọi cái lược trúc là cái gì? Điều này trở thành một vấn đề nan giải.

Để ngộ được công án này, Viên Nhĩ đã ngày đêm nghiên cứu công án, song vẫn chẳng ngộ ra được đạo lý ẩn sâu bên trong đó. Nguyên nhân là vì, từ trước tới nay, Viên Nhĩ đều theo học Thiên Thai Tông và Mật Tông, hai tông phái này vốn rất cố chấp với những lời dạy của Phật Thích Ca, coi là khuôn vàng thước ngọc, không thể thay đổi.
Cũng chính vì vậy, tư tưởng của những tông phái này bị chính sự cố chấp trong tư tưởng của mình bó buộc. Vô Chuẩn Sư Phạm chấp nhận một người có lại lịch như Viên Nhĩ làm đệ tử của mình, có thể thấy là ông vô cùng kỳ vọng vào người thanh niên Nhật Bản này.
Cho tới một ngày, Viên Nhĩ theo thường lệ trình bày với thầy những kiến giải của mình về vấn đề này. Vô Chuẩn Sư Phạm nghe xong, chẳng nói chẳng rằng, tiến tới gần vung tay tát thẳng vào mặt Viên Nhĩ một cái như trời giáng khiến Viên Nhĩ lăn quay xuống đất.
Khi bị ngã nhào xuống đất, đau đớn và thở dốc thì cũng là lúc Viên Nhĩ ngộ ra chân lý. Ông đã thoát khỏi hai chữ “Hữu Vô” – “Có Không” để đạt tới trạng thái tĩnh tâm giác ngộ.
Lúc bấy giờ, Viên Nhĩ vội vàng đốt hương cảm ơn đại ơn đại đức của sự phụ đã giúp mình giác ngộ. Vô Chuẩn cũng cảm thấy rất vui vì cuối cùng Viên Nhĩ cũng đã có thể vượt qua được những chấp niệm đã đeo bám theo ông từ khi ông bắt đầu xuất gia theo Phật Pháp. Ngay trong hôm đó, Vô Chuẩn Sư Phạm đã ấn khả cho Viên Nhĩ.


Để chúc mừng Viên Nhĩ, Vô Chuẩn Sư Phạm còn tặng cho ông một bức tranh. Bức tranh  này ngày nay vẫn còn được trưng bày ở Nhật Bản. Sau khi được Vô Chuẩn Sư Phạm ấn chứng, Viên Nhĩ tiếp tục ở lại theo học Vô Chuẩn thêm 3 năm nữa rồi mới cáo biệt, trở về Nhật Bản.
Sau 8 năm cầu pháp ở Trung Quốc, Viên Nhĩ trở về tới Nhật Bản. Tại quê nhà, Viên Nhĩ đã sáng lập chùa Đông Phúc (Tofuku-ji) tại kinh đô Kyoto và trở thành sư trụ trì tại nơi đây.
Ngoài ra, Viên Nhĩ còn quản lý hai thiền viện khác là Thụ Phúc (Jufuku-ji) và Kiến Nhân (Kennin-ji), cả ba đều là những thiền viện quan trọng nằm trong hệ thống “Ngũ sơn thập sát” của Liêm Thương và Kinh Đô.
Do xuất thân từ Thiên Thai Tông rồi đắc đạo với Thiền Tông, phương pháp dạy đệ tử của Viên Nhĩ bao gồm giáo lý của Thiên Thai, Chân ngôn và cả Thiền Tông nhưng khác với phương pháp của Vinh Tây, Thiền tông trong giáo pháp của Viên Nhĩ được xếp cao hơn hẳn hai giáo môn còn lại.
Do những công trạng to lớn của Viên Nhĩ đối với sự phát triển của Thiền tông Nhật Bản, nên sau khi ông viên tịch, Hoa Viên Thiên Hoàng đã phong tặng cho ông tước hiệu Thánh Nhất Quốc sư. Đây cũng là lần đầu tiên trong lịch sử Nhật Bản có danh hiệu Quốc sư và Viên Nhĩ cũng là vị Quốc sư đầu tiên trong lịch sử Phật Giáo của quốc gia này.

Friday, August 25, 2017

CÂU CHUYỆN CỦA ĐỨC THẾ TÔN/ NHƯ LAI – THE WORLD HONORED ONE’S STORY

Đức Thế Tôn [The World Honored One] kể câu chuyện về một thương gia góa vợ. Trong một chuyến đi buôn xa, ông để đứa con trai nhỏ ở nhà một mình. Một toán cướp đến cướp bóc, giết người, rồi thiêu trụi cả ngôi làng. Thương gia đó trở về và thấy nhà mình chỉ còn là một đống tro. Gần đó có xác của một đứa bé bị cháy đen. Người cha lăn lộn, đấm ngực, than khóc. Ngày hôm sau, ông ta đem thi thể đứa bé đem thiêu rồi may một túi nhỏ bằng gấm để đựng tro đứa con yêu quý nhất đời. Rồi ngày đêm, khi ăn, khi ngủ, đi đâu ông cũng đem túi tro trong người. Sự thật là đứa bé con ông bị bọn cướp bắt cóc. Ba tháng sau, cậu bé trốn thoát được và tìm đường về nhà. Cậu về đến làng rất khuya, gõ cửa ngôi nhà mà cha cậu đã dựng lại. Người cha đang nằm ôm túi tro than thở, nghe tiếng gõ cửa bèn hỏi:
- Ai đó?
Đứa bé trả lời:
- Con đây, thưa cha!
Người cha nói:
- Không phải! Con của ta chết rồi! Chính ta đã thiêu xác nó và đang đeo túi đựng tro của nó đây. Mày chỉ là một thằng nhỏ tinh nghịch muốn đánh lừa ta thôi. Đi đi! Đừng quấy rầy ta nữa.

Rồi ông ta nhất định không mở cửa. Cậu bé đành phải bỏ đi và người cha vĩnh viễn mất đứa con.

Sau khi kể câu chuyện trên, Đức Phật/ Như Lai nói:
- Có một lúc nào đó trong đời, nếu các con chấp nhận một ý kiến hay một nhận thức như là một sự thật tuyệt đối thì các sẽ đóng kín tâm ý của mình và mất cơ hội tìm ra sự thật. Mà ngay khi sự thật đến gõ cửa, các con cũng sẽ từ chối, không chịu mở cửa. Vướng vào quan điểm, chấp vào lý tưởng, hay mắc kẹt vào nhận thức là chướng ngại lớn nhất trên đường đi tìm chân lý.

Wednesday, August 23, 2017

VŨ TRỤ TOÀN ẢNH

Nhóm các nhà vật lý Deutschland/ Đức Quốc và Vương Quốc Anh/ U.K, GEO600 khi đang truy tìm sóng hấp dẫn đã ghi đo được một tiếng ồn lạ lùng mà họ không giải thích được. Nhà vật lý America/ USA/ Hiệp Chúng Quốc, Craig Hogan đã tiên đoán sự tồn tại của tiếng ồn đó và đồng nhất tiếng ồn đó với tiếng ồn toàn ảnh [holographic noise] của vũ trụ. Trong vũ trụ toàn ảnh mọi thực thể trong không gian và thời gian đều liên thông với nhau [interconnectedness] và cách tiếp cận toàn ảnh giúp thống nhất hấp dẫn và lượng tử [Bài toán số một của vật lý – Chén Thánh] và rộng hơn cung cấp một tầm nhìn nhất quán đối với mọi hiện tượng thuộc vật lý, sinh học, bệnh học, tâm lý học, ngoại tâm lý học [parapsychology]...

Vũ trụ toàn ảnh nếu đúng sẽ mở ra một kỷ nguyên khoa học mới có chiều sâu hơn hiện nay [ScienceDaily Feb.4, 2009].

To see a World in a Grain of Sand,
And a Heaven in a Wild Flower,
Hold Infinity in the palm of your hand,
And Eternity in an hour.

Dịch nghĩa:

Để thấy Vũ trụ trong một Hạt cát
Và Bầu trời trong một Đóa hoa Rừng,
Hãy giữ Vô cùng trong lòng tay bạn
Và Thiên thu trong một khắc đồng hồ.
William Blake, thi sĩ Anh Quốc (1757-1827)

TOÀN ẢNH LÀ GÌ? WHAT IS HOLOGRAPHY?

Như chúng ta biết trong quang học có phương pháp ghi một vật thể 3 chiều bằng một ảnh 2 chiều [hologram]. Kỹ thuật này gọi là holography (phương pháp toàn ảnh). Chữ holography có gốc từ ngoon ngữ Greek (whole, toàn thể) + graph (writing, ghi ảnh). Đây là một phương pháp chụp ảnh hiện đại.

Nhà vật lý người Hungary Dennis Gabor (1900-1079) là người phát minh Holography năm 1948 và nhờ thành tích này ông trở thành khôi nguyên giải Nobel năm 1971.

Hologram là một ảnh 2D (2 chiều), song khi được nhìn dưới những điều kiện chiếu sáng nhất định thì tạo nên một hình ảnh 3D [3 chiều] trọn vẹn. Mọi thông tin mô tả vật thể 3D đều được mã hoá trên mặt biên 2D. Như vậy chúng ta có hai thực tại 2D và 3D tương đương với nhau về mặt thông tin.

Một tính chất quan trọng khác của hologram là nếu chỉ lấy một phần của nó người ta cũng có thể khôi phục được hình ảnh 3D của vật. Tính chất này được diễn tả trong mấy vần thơ đề tựa của William Brake ở đầu bài viết [trùng hợp vì triết lý toàn ảnh], mặc dầu chúng
được viết từ nhiều thế kỷ trước.

HAI KIẾN TRÚC SƯ LỚN CỦA TOÀN ẢNH

Hai nhà khoa học, kiến trúc sư của lý thuyết toàn ảnh là: nhà vật lý David Bohm, Đại học London, Vương Quốc Anh/ U.K và nhà thần kinh học xuất sắc Karl Pribram, Đại học Stanford, America/ USA/ Hiệp Chúng Quốc tác giả cuốn sách nổi tiếng “Các Ngôn Ngữ Của Não Bộ – Languages of The Brain”. Một điều kỳ lạ là hai nhà khoa học này vốn làm việc trong hai lĩnh vực hoàn toàn khác nhau lại cùng đi đến những kết luận giống nhau. David Bohm đi đến kết luận về tính toàn ảnh của vũ trụ sau nhiều năm không vừa ý/ thỏa mãn với những giải thích các hiện tượng vi mô theo thuyết lượng tử, còn Pribram , vì sự thất bại của các lý thuyết cổ điển sinh học đối với những bí ẩn trong sinh lý học thần kinh [neurophysiology].

Cuối cùng họ gặp nhau và cùng hiểu rằng mô hình toàn ảnh cho phép hiểu được một loạt những điều bí ẩn trong vật lý, trong thần giao cách cảm [telepathy], tiên tri [precognition] biết trước sự vật, sự thống nhất con người và vũ trụ [oneness], động học tâm lý [psychokinesis],...

VŨ TRỤ TOÀN ẢNH [HOLOGRAM]

Khi làm việc tại Phòng thí nghiệm Bức xạ Berkeley về plasma, Bohm đã nhận xét rằng trong trạng thái plasma các electron không hành xử như những thực thể riêng lẻ mà như thành phần của một hệ thống nhất liên thông (interconnected). Điều đáng ngạc nhiên là plasma có thể hút các tạp chất ở biên giống như một trực trùng amip (amoeboid) nuốt chất lạ vào bào nang. Bohm có ấn tượng là biến các electron là một sinh thể. Những ý tưởng đó giúp Bohm tìm ra plasmon, tạo nên tiếng tăm cho nhà vật lý. Bohm đưa ra một thí dụ:
- Hãy lấy một con cá vàng đang bơi trong bể cá cảnh và tưởng tượng rằng bạn chưa bao giờ thấy một cảnh tượng như vậy, mọi nhận thức của bạn chỉ có được nhờ hai camera A và B quét từ hai góc khác nhau. Khi nhìn vào hai màn hình
TV bạn lầm tưởng đang quan sát hai con cá vàng. Song theo dõi một lúc bạn thấy rằng có mối liên hệ đồng bộ giữa hai con cá này. Như vậy hai ảnh trên hai màn hình chỉ là hai biểu hiện của một thực thể ở mức sâu hơn, trong trường hợp này thực thể đó là bể cá cảnh với cá vàng bên trong. Tình huống này giống như hai photon phát ra từ sự phân rã của một positronium.Theo Bohm tồn tại một thế lượng tử chiếm đầy không gian và các hạt liên thông với nhau một cách không định xứ [nonlocal].

Nguyên lý toàn ảnh có thể dẫn đến một triết học sâu sắc. David Bohm quan niệm rằng thực tại mà chúng ta tiếp xúc hằng ngày chỉ là một loại ảo tưởng giống như một bức tranh toàn ảnh [hologram]. Dường như thực tại có hai mức: một mức ở sâu hơn gọi là mức tiềm ẩn cuộn lại/ implicate enfolded và một mức gọi là mức tường minh mở ra/ explicate unfolded.

Một film toàn ảnh [hologram] và hình ảnh nó tạo ra là thí dụ của hai mức tiềm ẩn và tường minh. Cuộn film thuộc mức tiềm ẩn vì hình ảnh được mã hóa trong các dạng giao thoa chứa trong film còn hình ảnh chiếu ra thuộc mức tường minh vì các giao thoa mã hóa được mở ra [unfolded].

Theo David Bohm, sóng và hạt đều bị cuộn lại trong một thực thể lượng tử, chỉ có tiến trình tương tác mới bộc lộ tường minh một khía cạnh nào đó còn khía cạnh kia vẫn nằm
tiềm ẩn. Vì từ toàn ảnh – holographic – có có tính tĩnh tại/ static nên để mô tả những tiến trình động/ dynamic cuộn lại và mở ra liên tục của thực tại nên David Bohm đưa ra danh
từ toàn ảnh động – Holomovemant.

Bohm quan niệm rằng mọi vật trong vũ trụ đều là những phần tử của một continium[1]. Bohm cho rằng phân biệt thế giới sống [living]] và không sống [nonliving] là điều vô
nghĩa. Vì mỗi phần của một bức toàn ảnh [hologram] đều chứa thông tin của toàn ảnh cho nên mỗi bộ phận của vũ trụ đều chứa thông tin của toàn vũ trụ.

Điều đó có nghĩa là nếu biết cách tiếp cận thì chúng ta có thể tìm thấy thiên hà Tiên nữ [Andromeda] trong móng ngón tay bàn tay trái[2]. Bài thơ của William Blake, thi sĩ Anh Quốc/ England (1757-1827) đề dẫn trên đây diễn tả cùng một ý.

NÃO BỘ LÀ MỘT TOÀN ẢNH – HOLOGRAM

Pribram xuất phát từ việc tìm hiểu não bộ lưu trữ trí nhớ bằng cách nào và ở đâu?

Trong những năm 1940, người ta tin rằng trí nhớ nằm trong não bộ. Mỗi dấu vết trí nhớ gọi là một engram, tuy chẳng ai biết engram được cấu tạo bằng gì
.
Từ năm 1920 Wilder Penfield dường như chứng minh được rằng các engram nằm trong những vùng nhất định của não bộ[3]. Pribram, lúc còn là một nhà phẫu thuật thần kinh nội trú không có một nghi ngờ nào đối với lý thuyết engram của Penfield. Song nhiều điều xảy ra đã làm Pribram thay đổi quan điểm. Tại Phòng thí nghiệm sinh học Yerkes, Florida, USA, nhà tâm lý thần kinh [neuropsychologist], Karl Lashley đã huấn luyện chuột một số kỹ năng rồi cắt bỏ những phần trong não bộ có thể liên quan đến kỹ năng đó [không một nhà phẫu thuật nào tìm được một vị trí xác định của các engram].

Song một điều ngạc nhiên là dù cắt bỏ bao nhiêu đi nữa kỹ năng được huấn luyện vẫn lưu tồn. Và Pribram đi đến kết luận quan trọng:
- Trí nhớ không được lưu trữ tại một nơi nào cả trong não bộ mà bằng một cách nào đó lan truyền và phân bố trong toàn não bộ.

Vào giữa năm 1960, khi Pribram đọc một bài báo trên Scientific American về cấu tạo của một hologram thì ông hiểu rằng: não bộ là một toàn ảnh [hologram].


Trí nhớ được xem như là những xung lượng thần kinh đan chéo chằng chịt trong não bộ tương tự như những hình ảnh giao thoa tia laser trên một diện tích của hologram. Không riêng gì đối với trí nhớ mà đối với các khả năng khác của con người như thị giác và thính giác người ta cũng quan sát được các tính chất toàn ảnh. Nhà nghiên cứu Hugo Zucarelli phát triển kỹ thuật gọi là âm học toàn ảnh – holophonic sound – sử dụng tính toàn ảnh của thính giác.

Nếu như một phần của hologram có khả năng tái tạo toàn ảnh của một vật thì mỗi phần của não bộ cũng chứa tất cả thông tin để phục hồi toàn bộ trí nhớ.

Một nhà sinh học là Paul Pietsch, Đại học Indiana, America/ USA, muốn chứng minh rằng Pribram sai đã thực hiện hơn 700 thí nghiệm: cắt lớp, đảo chiều, thay đổi thứ tự, cắt bỏ, thái mỏng…trên bộ não của nhiều con kỳ going/ nhông [salamandridae) song lúc đặt lại trong bộ não những gì còn lại thì thấy các con vật vẫn hành xử như không có điều gì xảy ra đối với trí nhớ.  

BOHM VÀ PRIBRAM GẶP NHAU

Các lý thuyết của Bohm và Pribram đã tạo nên một quan điểm sâu sắc về nhận thức luận đối với thế giới khách quan:

- Toàn bộ vũ trụ là một toàn ảnh [the entire universe is a hologram]

- Bộ não là một hologram cuộn vào trong vũ trụ toàn ảnh.

- The brain is a hologram enfolded in a holographic universe.

Năm 1982 Alain Aspect, Đại học Paris, Pháp Quốc, đã thực hiện một thí nghiệm có thể nói là quan trọng nhất trong thế kỷ 20, liên quan đến nghịch lý EPR [4], chứng minh rằng trong những điều kiện nhất định các hạt như electron có thể tức thời liên lạc với nhau. Vậy vận tốc truyền thông tin lớn hơn vận tốc ánh sáng bất kể khoảng cách giữa chúng là 10 m hay 10 triệu dặm.

Theo David Bohm, thì thí nghiệm của Aspect càng chứng minh vũ trụ quả là một hologram. Trong nghịch lý EPR, theo Bohm thì Einstein sai lầm vì cho rằng hệ đó là hai hạt riêng lẻ trong khi phải xét chúng như một hệ không phân chia được.

Và không phải các electron đã truyền thông tin cho nhau theo một cách bí ẩn nào đó mà là sự phân cách giữa chúng chỉ là một ảo tưởng. Tại một mức sâu sắc, các hạt đó không là những thực thể riêng lẻ mà chỉ là những biểu kiến của một thực thể cơ bản.

Rộng hơn mọi thành phần của vũ trụ ở một mức sâu hơnđều liên thông với nhau [interconnectedness] và ngược lại vũ trụ hiện hữu trong mỗi bộ phận – whole in every
part.


Một thí dụ của mức sâu đó của thực tại chính là cái bể cá cảnh cùng con cá vàng trong thí dụ nói ở trên đây. Theo Bohm, chúng ta thấy được những thực thể riêng biệt chỉ vì ta chỉ nhìn được một khía cạnh của thực tại. Các thực thể riêng biệt đó chỉ là những bóng ma [eidolon] còn vũ trụ tự thân là một hình chiếu, nói cách khác là một hologram.

Các lý thuyết của Bohm và Pribram đã tạo nên một quan điểm sâu sắc về nhận thức luận đối với thế giới khách quan:
- Toàn bộ Vũ Trụ là một toàn ảnh – The entire universe is a hologram.
- Bộ não là một hologram cuộn vào trong vũ trụ toàn ảnh.
- The brain is a hologram enfolded in a holographic universe.

Các electron của nguyên tử carbon trong não bộ của con người liên thông với các nguyên tử của mỗi con cá hồi đang bơi, của mỗi quả tim đang đập và của những vì sao đang
chiếu sáng trên bầu trời. Vì sự liên thông phổ quát này mà trong vũ trụ toàn ảnh, thậm chí KHÔNG GIAN VÀ THỜI GIAN KHÔNG CÒN LÀ CƠ BẢN NỮA.

Những khái niệm như tọa độ và thời điểm sẽ không còn ý nghĩa trong một vũ trụ mà không vật gì được tách rời với vật khác trong không gian và thời gian. Tại mức sâu hơn này, thực tại là một siêu hologram trong đó quá khứ, hiện tại và tương lai quyện vào nhau và tồn tại đồng thời. Tại mức sâu siêu hologram nếu tìm được phương pháp thích hợp, chúng ta có thể làm tái hiện được những cảnh tượng từ quá khứ xa xôi.

Sự tổng hợp hệ thống ý tưởng của Bohm và Bribram dẫn đến là hệ mẫu toàn ảnh HP [Holographic Paradigm].

Nhiều nhà khoa học công nhận rằng nhiều hiện tượng ngoại tâm lý học [para-psychological [5][ như thần giao cách cảm, luân hồi, tiên tri... có thể hiểu được nhờ HP.

Thời gian sẽ trả lời HP đúng hay sai song hiện tại HP, vì hàm lượng triết lý lớn, đang làm say đắm nhiều nhà khoa học và là nguồn cảm hứng dồi dào cho điện ảnh. Các film “The Matrix”, “The 13th Floor”, “Star Trek”... cho nghệ thuật, văn chương.

CUỘC CHIẾN QUANH LỖ ĐEN VÀ NGUYÊN LÝ TOÀN ẢNH

Vì sao mà nguyên lý toàn ảnh trở nên quan trọng cho vật lý lượng tử?[6]

Năm1993, Gerard ‘t Hooft [và có thể cùng thời Leonard Susskind, một trong những người phát triển lý thuyết dây] đề ra nguyên lý holographic:

- Theo nguyên lý này tồn tại một vật lý nD trên mặt biên [không gian n chiều] mô tả được hoàn toàn vật lý (n+1)D của hệ nằm trong mặt biên (không gian n+1 chiều).Thông tin trong một thể tích không gian sẽ được lưu trữ bề mặt của thể tích đó, ở đấy một bit thông tin chiếm 1/4 yếu tố diện tích Planck [Bekenstein]. Đối với lỗ đen thông tin này sẽ được mã hóa trên mặt chân trời của lỗ đen.
Theo nguyên lý holographic, các quy luật vật lý trên mặt biên [xem là hologram] mô tả tương tác giữa các hạt như quark, gluon trong khi các quy luật vật lý của không gian nằm
trong mặt biên được mô tả bởi lý thuyết siêu dây như thế có chứa cả hấp dẫn.

Năm 1997, tác giả Maldacena, đai học Harvard, USA, đã thực hiện nguyên lý holography nhờ thiết lập mối quan hệ sau:

Một vũ trụ mô tả bởi lý thuyết siêu dây [như vậy có hấp dẫn) trong một khônggian – thời gian gian anti-de Sitter 5 chiều tương đương với một lý thuyết trường lượng tử [không chứa hấp dẫn] trên mặt biên 4 chiều của khôngthời gian đó.

Bài toán lớn nhất hiện nay của vật lý/ cơ học lượng tử là thống nhất được hai lý thuyết lớn nhất của thời đại:

- L ý thuyết lượng tử và lý thuyết tương đối rộng.

Nguyên lý toàn ảnh có hy vọng là một phương án để làm được điều đó.

Công trình của Maldacena gây một chấn động dữ dội trong giới vật lý lý thuyết. Trong vòng 5 năm, công trình của Maldacena được trích dẫn trên 5,000 lần và được xem như một bước đột phá về quan niệm, tạo nên một cách nhìn mới đối với hấp dẫn và lý thuyết trường lượng tử.

Cuốn sách vừa xuất bản “Cuộc Chiến Quanh Lỗ Đen – La Guerre Du Trou Noir” của Leonard Susskind [6] mô tả lại cuộc tranh luận giữa Stephen Hawking và nhiều người khác thuộc phái phản đối.

Stephen Hawking cho rằng lỗ đen là một thực thể vi phạm nguyên lý bảo toàn thông tin trong lý thuyết lượng tử [và trong vật lý nói chung], Một thực thể xé nuốt thông tin, [Dévoreurs d’informations]. Tuy nhiên, đến năm 2004, Stephen Hawking tuyên bố thua cuộc John Preskin trong một cuộc đánh đố rằng thông tin bảo toàn hay biến mất sau khi lỗ đen bay hơi.

Như vậy bài toán nghịch lý về thông tin trong lỗ đen có thể xem như được sáng tỏ phần nào [thông tin là bảo toàn song thu hồi nó như thế nào].

Nguyên lý toàn ảnh khẳng định rằng mọi thông tin trong lỗ đen giờ đây được mã hoá trên diện tích chân trời và thông tin được bảo toàn trong quá trình bay hơi của lỗ đen.

Thất bại này của Stephen Hawking càng làm cho giới khoa học chú ý nhiều đến HP.

MỘT KIỂM CHỨNG THỰC NGHIỆM: PHÁT HIỆN TIẾNG ỒN TOÀN ẢNH – HOLOGRAPHIC NOISE – CỦA DỰ ÁN GEO600


GEO600 là một dự án hợp tác giữa Viện Vật lý hấp dẫn Max Planck, Đại học Leibniz, Hannover, Deutschland; Đại học Cardiff, Đại học Glashow, Scotland; và Đại học Birmingham, Vương Quốc Anh/ U.K.

GEO600 là một detector dài 600 m, xây dựng tại Hannover, Deutschland/ Đức Quốc, có mục tiêu tìm sóng hấp dẫn phát ra từ những thiên thể như sao neutron, lỗ đen.
Hiện nay GEO600 [7] chưa tìm ra sóng hấp dẫn song rất có thể đã phát hiện một hiện tượng quan trọng nhất trong thế kỷ này. Trong nhiều tháng qua, đội ngũ GEO600 đau đầu vì một nhiễu loạn, một tiếng ồn không giải thích được trong detector của họ.

Một điều đáng ngạc nhiên, Craig Hogan, Giám đốc Trung tâm Vật lý thiên văn các hạt cơ bản, Phòng thí nghiệm Gia tốc quốc gia Fermi, GS Đại học Chicago, Illinois, USA, lại tiên đoán được rằng nhóm GEO600 sẽ gặp vấn đề về tiếng ồn lạ lùng này và đưa ra cách giải thích:

- Nhóm GEO600 đã tiến đến giới hạn cơ bản của không gian – thời gian, đã tiến đến điểm mà continium phẳng phiu của Einstein chấm dứt nhường chỗ cho cấu trúc dạng “hạt” gián đoạn, nhóm GEO600 đã chạm ngõ đến sự thăng giáng “run rẩy” lượng tử của không thời gian, một mức sâu của thực tại trong vũ trụ hologram [8]. Tại những khoảng cách vi mô với kích thước cỡ 10–35 m [độ dài Planck] không gian – thời gian có cấu trúc gián đoạn như cấu tạo được bằng những pixel.

GS Bernard Schutz,Viện Thiên văn Hoàng gia Vương Quốc Anh, phát biểu:

- Nếu tiếng ồn toàn ảnh được phát hiện thì đây là tín hiệu của một kỷ nguyên mới trong vật lý cơ bản. (ScienceDaily,Feb.4,2009)

GS Karsten Danzmann, Giám đốc Viện Albert Einstein, Hannover, Deutschland, dè dặt hơn phát biểu:

- Vấn đề tiếng ồn toàn ảnh đã đặt nhóm nghiên cứu GEO600 vào tâm cơn lốc của một nghiên cứu cơ bản quan trọng của thế kỷ. Nhóm các nhà vật lý GEO600 đang tích cực thu thập dữ liệu để chứng minh liệu tiếng ồn họ thu được có phải là tiếng ồn toàn ảnh hay không?

Nếu nhóm GEO600 đã tìm thấy những gì mà Craig Hogan phỏng đoán thì chúng ta đang ở trong một hologram vũ trụ khổng lồ.

KẾT LUẬN:

- Vũ trụ của chúng ta có thể là một hologram khổng lồ.
- Our World May Be a Giant Hologram [9].

Nếu điều này đúng thì trước mắt chúng ta là một kỷ nguyên khoa học mới [ScienceDaily,Feb.4,2009] có tầm bao quát một cách thống nhất nhiều hiên tượng [từ vật
lý đến các khả năng kỳ diệu của não bộ] mà khoa học hiện nay chưa có lời giải thích.
Vũ trụ toàn ảnh sẽ có tác động lớn đến triết học và là nguồn cảm hứng của nhiều ngành nghệ thuật.

Nhiều nhà khoa học xếp lý thuyết Vũ trụ toàn ảnh ở tuyến đầu tri thức – The lastest frontier of knowledge – lý thuyết Vũ trụ toàn ảnh có nội dung lớn hàm ẩn cả Toán Học, Vật Lý, Sinh Học, Triết Học...

Tài liệu tham khảo và chú thích:

[1] David Bohm, Wholeness and the implicate Order, 1980.
[2] Michael Talbot, The holographic Universe,1996.
[3] Wilder Penfield, The mystery of Mind, 1975.
[4] EPR: nghịch lý EINSTEIN, PODOLSKY AND ROSEN,
[5] Ngoại tâm lý học [parapsychology] nghiên cứu những khả năng giả đoán của tâm lý:
ngoại cảm [telepathy], tuệ nhãn [perceptiveness], tiên tri và hồi tri [precognition
and retrocognition], động học tâm lý [psychokinesis].
[6] La Recherche, Paul Davies & Leonard Susskind, Fevrier 2009 No 427.
[7] http://www.geo600.de
[8] Craig Hogan, Physical Review D, vol 77, p 104031.
[9] Marcus Chown, Our world may be a giant hologram, New Scientist, 15 January,
2009.