Monday, December 15, 2014

TƯ DUY VÀ CẢM NHẬN - THINKING AND FEELING

TƯ DUY VÀ CẢM NHẬN

Khi Carl Jung sắp xếp, phân loại các hoạt động “có lý trí” của ý nghĩ, ông chia chúng thành hai dạng: tư duy [thinking] và cảm nhận [feeling]. Chúng ta thường coi cảm xúc là thiếu chặt chẽ và thiếu rõ ràng, nhưng đối với Jung, đó là một trong những hoạt động có lý trí nghiêm chỉnh của trí óc. Cảm nhận, đối với Jung, là cái giúp ta đánh giá giá trị vốn có của sự vật. Cảm nhận giúp ta nhìn thế giới một cách toàn cục, trọn vẹn, tổng thể [globally], thay vì chia tách, phân tích thành những bộ phận riêng lẻ [analytically]. Nếu tư duy không được cân bằng với cảm nhận thì nó trở thành một thứ định kiến ám ảnh [obsessive] và giáo điều một chiều [one-tracked], không để ý tới ý nghĩa tổng thể của cái mà người ta đang làm. Ngược lại, nếu cảm nhận không được kiềm chế bởi tư duy thì chúng ta có nguy cơ lao vào các sự kiện với một sự hăng hái nhiệt tình và tin tưởng chắc chắn mà không có những kế hoạch đúng đắn hoặc không lường trước được những cạm bẫy có thể có.

Nếu chúng ta coi định lý Godel như một phép ẩn dụ, nó sẽ nói rằng luôn luôn có thể có một cái gì đó nằm bên ngoài sơ đồ tư duy logic của con người, và rằng những mâu thuẫn có thể luồn lách vào bên trong khuôn khổ logic chặt chẽ nhất của con người, bởi vì những vấn đề có giá trị trên giấy tờ không có nghĩa là chúng sẽ hoạt động tốt trên thực tế. Thiếu cảm xúc mang tính người, logic sẽ đẩy chúng ta về phía trước, nhiều khi nó còn chống lại mong muốn của chúng ta. Và khi nó chôn vùi chúng ta, nó sẽ bẻ cong mọi thứ trong gọng kìm của nó.

Lý thuyết lượng tử [Quantum theory] cung cấp cho chúng ta một cách nhìn hoàn toàn khác. Cách nhìn này dựa trên một logic đồng thời thừa nhận cả A lẫn không –A [not A]. Đó là một logic phụ thuộc vào bối cảnh cụ thể đang xảy ra và tuân thủ nguyên lý bổ sung – nguyên lý cho rằng một cái gì đó là A trong bối cảnh này có thể trở thành không –A trong bối cảnh khác. Thay vì tuân thủ một logic máy móc buộc con người phải tiến từ dòng này quá dòng khác, logic lượng tử lại mời chúng ta đi ngược và đặt câu hỏi: “Trong bối cảnh nào thì cái logic này hoạt động?”

Chủ nghĩa logic độc đoán là một dạng của sự đối đầu mà trong đó không có mảnh đất trung gian. Đó là logic theo luật bài trung. Đó là logic của kẻ thắng người thua. Đó là một cuộc chơi ngả bài trong đó hoặc chúng ta thắng, sao cho đối phương phải làm theo sự đặt giá của chúng ta, hoặc chúng ta thua mất mặt và mất hết uy quyền. Sẽ tốt hơn nhiều nếu mỗi tiếng nói đều được lắng nghe và mỗi vị trí đều được tôn trọng, khi mọi người đều có đóng góp sáng tạo và cảm thấy người này hoặc người kia gặt hái được cái gì đó mà không ai đánh bại ai. Làm thế nào để một “hành động đúng đắn” tránh được sự tức giận và xung đột? Đây không phải là sự thỏa hiệp, theo nghĩa là rút lui nhường bước, mà là tạo ra một khuôn khổ đủ mềm dẽo mà trong đó mỗi người có thể thể hiện vai trò của mình và hành động theo một phương cách lịch thiệp cao quý.

Trích trong quyển “TỪ XÁC ĐỊNH ĐẾN BẤT ĐỊNH. Những câu chuyện về khoa học và tư tưởng của thế kỷ 20.”
Chương 2: Định lý Godel và tính bất toàn.
Trang 96.

THINKING AND FEELING

When Carl Jung classified the “rational” functions of the mind he divided them into thinking and feeling. We often consider feeling to be loose and nebulous, but for Jung it was one of the mind’s strictly rational functions. Feeling, for Jung, is what assesses the inherent value of things. Feeling looks at the world globally rather than analytically.If thought is not balanced by feeling, then it can become obsessive and one-tracked, giving no attention to the overall meaning of what one is doing. Conversely, if feeling is not tempered by thought, then we are in danger of rushing into events with great enthusiasm and conviction without making proper plans or understanding possible pitfalls.

If we take Gödel’s theorem as a metaphor, it is telling us that something may always be left out of our grand schemes of logical thought and that inconsistencies can creep into the most logically rigorous of our frameworks. Just because things make sense on paper does not necessarily mean they will work in a practical way. Without our more human feelings logic will propel us forward, almost against our will. And when it overwhelms us it bends everything into its grip.

Quantum theory offers us an alternative viewpoint. It depends upon a logic that is inclusive and leaves room for both A and not-A. It is a logic that depends on contexts and complementarity, one in which what is A in one context becomes not-A in another. Instead of a mechanical logic that forces us onward, line by line, quantum logic invites us to step back and ask, In what context is this logic operating?

The authoritarianism of logic is a form of confrontation in which there is no middle ground. It is a logic of the excluded middle. It is a logic of winners and losers. It is a showdown in which either we triumph, so that our opponent does our bidding, or we lose face and lose power. Far better is when each voice has been heard and each position respected, when everyone has made a creative  contribution and feels he or she has gained something while defeating no one. For how can “right action” flow out of anger and conflict? This is not compromise, in the sense of giving ground, but of creating a framework flexible enough to tolerate multiple points of view and contexts. It is an approach in which each person can work out of his or her own center and act in a gentle way.

From Certainty to Uncertainty - The Story of Science and Ideas in the Twentieth Century.
Chapter 2: On Incompleteness.
Page 48.

Tuesday, December 9, 2014

NGỤ NGÔN – PARABLE



Trong kinh điển, Đức Phật có kể lại một ngụ ngôn như sau:

Một người đi qua cánh đồng và gặp một con cọp. Anh ta bỏ chạy, con cọp rượt đuổi theo anh ta. Chạy đến một bờ vực sâu, anh ta thấy có một chùm dây leo mọc rủ xuống bờ vực. Anh ta nắm chặt lấy chùm dây leo và leo xuống vực. Con cọp đứng trên bờ vực gầm gừ nhìn xuống. Bất hạnh thay, khi từ từ thả mình xuống đáy vực, anh ta lại thấy có một con cọp khác đang gầm thét, há miệng đầy nanh vuốt sắc nhọn chờ để ăn thịt anh ta. Anh ta chỉ còn cách duy nhất là bám chặt vào chùm dây leo lơ lửng giữa đáy vực và đỉnh vực. Nhưng rồi có hai con chuột xuất hiện, một con trắng, một con đen, và bắt đầu gặm đứt dần dần vào từng chút một chùm dây leo.
Lúc đó, anh ta chợt nhìn quanh và thấy một trái dâu rừng chín mọng, thơm ngon ở gần đó, trong tầm tay của mình. Một tay nắm chặt chùm dây leo, tay kia anh với hái lấy trái dâu. Cầm trái dâu trên tay, anh ta đưa trái dâu vào miệng và cắn trái dâu rừng. Ôi trái dâu thơm ngọt biết bao!

Bình:
• Con cọp trên vực và con cọp ở dưới vực, tượng trưng cho hai giới hạn của đời người: cọp sau lưng (trên vực) là quá khứ hay là sinh; cọp trước mặt (dưới vực) là tương lai hay là tử. Cũng có thể xem con cọp sau lưng là tham – sân – si, là phiền não, khổ đau còn con cọp dưới đáy vực là sự vô thường.
Cuộc đời của con người nằm giữa quá khứ và tương lai. Chùm dây leo tượng trưng thời gian sống trong cuộc đời con người.
Chuột trắng, chuột đen là biểu tượng của ngày và đêm, mỗi ngày chúng ta sống là đưa chúng ta đến gần ngày chúng ta pass away.
Thời gian chúng ta sống có giới hạn và chắc chắn có ngày chúng ta sẽ chết nhưng chúng ta không biết là ngày nào mà thôi.
• Trái dâu rừng thơm ngon tượng trưng cho điều gì?
- Khoái lạc tạm thời làm cho ta si mê mà quên mất cái nguy hiểm cận kề đang gặp?
Nếu bạn nghĩ vậy thì cứ nhịn ăn mà chờ chết.
- Cái tươi đẹp thi vị đang hiện ra trước mắt mình?
Vậy thì hãy tận hưởng, thưởng thức những phút giây hiện tại.
Hãy thưởng thức trái dâu mà cuộc đời, cuộc sống cho bạn. Hãy sống ở “hiện tại, ở đây, lúc này” thật tròn đầy.
Đừng lo chuyện không thể lo được. Trước mặt là cọp và sau lưng cũng là cọp, nếu đến lúc phải chết là ta sẽ phải chết, không thể chống lại được, không thể chọn lựa được.
Nhưng trái dâu trước mặt, ta có cơ hội chọn lựa. Một là thưởng thức mật ngọt của nó, hai là để sợ hãi làm ta không thấy được trái dâu chín, không thưởng thức, cảm nhận được nó.
Thiền là không lo sợ. An lạc hạnh phúc với “hiện tại, lúc này, ở đây”.

Thursday, December 4, 2014

DANH NGÔN CỦA MAHATMA GANDHI

Chân lý bản thân nó đã là minh chứng. Ngay khi bạn dỡ đi mạng nhện ngu dốt xung quanh, nó sẽ sáng lòa.

Truth is by nature self-evident. As soon as you remove the cobwebs of ignorance that surround it, it shines clear.

Luật lệ không công bằng tự nó đã là một dạng bạo lực. 

An unjust law is itself a species of violence.

Với lương tâm, quy luật của số đông không có tác dụng.

In matters of conscience, the law of the majority has no place.

Thừa nhận sai lầm giống như cây chổi quét đi bùn đất khiến cho bề mặt sáng sủa và sạch sẽ hơn.

Confession of errors is like a broom which sweeps away the dirt and leaves the surface brighter and clearer.

Cuộc đời tôi là thông điệp của tôi.

My life is my message.

Tôi phải đối bạo lực vì khi nó định làm điều thiện, điều thiện chỉ là tạm thời; cái ác nó gây ra là vĩnh viễn.

I object to violence because when it appears to do good, the good is only temporary; the evil it does is permanent.

Không có lời tạm biệt, cho dù bạn đang ở đâu, bạn cũng ở trong trái tim tôi.

There are no good-byes [goodbye], where ever you'll be, you'll be in my heart.

Thà bạo lực, nếu trong trái tim là bạo lực, còn hơn khoác áo bất bạo lực để dấu đi sự bất tài.

It is better to be violent, if there is violence in our hearts, than to put on the cloak of nonviolence to cover impotence.

Sức mạnh không đến từ thể chất. Nó đến từ ý chí bất khuất.

Strength does not come from physical capacity. It comes from an indomitable will.

Tôi luôn thấy bí ẩn không hiểu tại sao con người lại có thể tìm vinh dự dựa trên sự nhục nhã của đồng loại.

It has always been a mystery to me how men can feel themselves honoured by the humiliation of their fellow beings.

Sự bất mãn tốt đẹp là dấu hiệu của tiến bộ.

Healthy discontent is the prelude to progress.


Tuesday, November 25, 2014

HOW DO FOREIGNERS THINK ABOUT VIETNAMESE??? NGƯỜI NGOẠI QUỐC NGHĨ GÌ VỀ NGƯỜI VIỆT NAM???

Tác giả: Nguyễn Võ Minh Tâm.



Cách đây khoảng gần chục năm, trong một cuộc nói chuyện bạn bè thân, tôi đã hỏi một người Anh Quốc [English] một câu và yêu cầu trả lời trung thực:

- Nếu phải lột tả người Việt Nam trong một hay hai từ, mày sẽ nói thế nào? Không được rắc compliments [lời khen]!

Biết ý tôi, không ngần ngại, anh bạn nói luôn:

- Câu hỏi này người ngoại quốc [foreigners] chúng tao ở Việt Nam luôn thảo luận với nhau khi không có người Việt Nam. Và đều nhất trí có câu trả lời giống nhau nhưng không bao giờ dám nói ra với người Việt Nam. Mày là người Việt Nam đầu tiên hỏi tao câu này không với ý định muốn nghe một lời khen, nên tao sẽ nói thật, đó là:

- Greedy Vietnamese!

Vâng, đó là:

-Người Việt tham lam!’

Dù đã chuẩn bị cho tình huống xấu nhất với đầu óc, tư duy cởi mở nhất, tôi đã choáng váng và cứng họng một lúc không nói được gì. Mãi sau, tôi mới thốt lên đau đớn vì biết bạn mình không nói dối:

- Greedy? Why?

- Tham lam? Tại sao?

Bạn tôi cười:

- Thì người Việt chúng mày, trừ mày ra [nó thương hại tôi!], luôn luôn cái gì cũng muốn được, không nhường cái gì cho ai bao giờ: Hợp đồng thì điều khoản ngon nhất, giá phải rẻ nhất, hàng phải tốt nhất, giao hàng phải nhanh nhất, bảo hành phải vô thời hạn, thanh toán thì chậm nhất, và … hoa hồng thì phải khủng khiếp nhất!

Tôi chết đứng. Tôi biết nó nói đúng hoàn toàn. Nó làm thương mại với người Việt Nam và ở Việt Nam gần hai chục năm rồi. Nó [và đa số người ngoại quốc cũng vậy] nhìn người Việt qua những gì nó thấy ở những công chức, viên chức nhà nước [quan liêu] hàng ngày làm việc [đàm phán thương mại] với nó!

Tôi đã từng đàm phán với nó cách đây hơn hai chục năm và với rất nhiều người ngoại quốc khác, chưa bao giờ biết đòi hỏi ai một cent [xu] nào từ vô số hợp đồng ngoại thương tôi đã đàm phán và ký kết. Nhưng tôi biết tôi là ngoại lệ nên tôi biết mình có quyền và có thể nhìn vào mắt mà hỏi nó [bạn tôi] hay bất kỳ ai [thương gia ngoại quốc] đã làm việc với tôi, câu hỏi đó mà không sợ bị nó/ họ cười khinh cho.

- Vậy, tính từ thứ hai “bọn mày” [tôi đã từng cùng nó có dịp uống beer trong các câu lạc bộ doanh nhân người Singapore, Malaysia, Nhật Bản, Vương Quốc Anh/ U.K, America/ USA, Hàn Quốc, Pháp Quốc…do các Amcham, Eurocham… tổ chức) miêu tả người Việt Nam là gì?

- Tôi dũng cảm tiếp tục, hy vọng lần này sẽ được nghe lời dễ chịu hơn.

Câu trả lời là:

- Tricky! Tricky Vietnamese!

– Gian! Người Việt hay gian!

Tôi hét lên:

- Không thể nào! Mày không đang trêu tức tao đấy chứ?!

Bạn tôi trả lời:

- Mày muốn tao trung thực mà?

- Vậy tại sao lại là gian? Tôi cố gắng chịu đựng.

- Vì chúng mày không bao giờ nói thật, nói thẳng, và có nói rồi cũng tìm cách thay đổi nếu có lợi hơn. Chúng mày luôn nghĩ rằng mình khôn hơn người và luôn luôn xoay sở để hơn người khác…

Tôi ngồi im lặng, điếng người, muốn khóc, và cố uống tiếp vại bia tự nhiên đắng ngắt. Từ đó tôi ghét uống bia. Nó nhắc tôi buổi tâm sự với phát hiện kinh hoàng trên.

Từ đó trong tôi tắt ngấm mở miệng tự hào…là người Việt Nam!

Friday, November 14, 2014

THE VOICE OF HAPPINESS – GIỌNG NÓI CỦA HẠNH PHÚC


Sau khi thiền sư Bankei [Bàn Khuê] qua đời, một người mù sống gần thiền viện của thiền sư nói với một người bạn:

- Bởi vì tôi mù, tôi không thể quan sát sắc mặt người ta nên tôi phải xét tư cách của họ qua giọng nói. Thường thì khi tôi nghe một người chúc mừng người khác về chuyện vui hay thành công nào đó, tôi cũng nghe một âm bí mật của ganh tị. Khi chia buồn với người khác về mất mát của họ, tôi cũng nghe thích thú và thỏa mãn, cứ như là người chia buồn thật sự vui vì có cái gì đó để lại cho họ hưởng trong thế giới riêng của họ.

Tuy nhiên, theo kinh nghiệm của tôi thì giọng nói của thiền sư Bankei [Bàn Khuê] luôn luôn thành thật. Khi thiền sư bày tỏ hạnh phúc, tôi chẳng nghe gì khác ngoài hạnh phúc, và khi thiền sư bày tỏ buồn rầu, tôi chẳng nghe gì khác ngoài buồn rầu.

Bình:

• Bankei Yōtaku (Eitaku), Bàn Khuê Vĩnh Trác, (1622 – 1693), cũng được gọi là Bàn Khuê Quốc sư (Bankei Kokushi), là một Thiền sư Nhật Bản, thuộc tông Lâm Tế. Sư là một trong những Thiền sư danh tiếng nhất trong lịch sử Phật giáo Nhật Bản với tư cách là người đã phổ biến Thiền học đến lớp quần chúng.

• Ganh tị là một trong những thói xấu mạnh nhất của con người. Ganh tị làm chúng ta thiếu thành thật khi khen, khi chia vui, khi chia buồn.

• Không phải chỉ có người mù mới nghe được sự thành thật hay giả dối trong giọng nói của người khác. Ai trong chúng ta cũng có khả năng này, chỉ cao thấp khác nhau mà thôi. Người rành ngôn ngữ của thân thể thì còn biết thật giả giỏi hơn. Cho nên người hời hợt hoặc dối trá trong đối thoại rất ít khi giấu được ai.

Vì vậy, quy luật truyền thông có hiệu quả là: Thành thật - Honesty.

• Nếu một người bạn cho xem một bài văn rối ren đọc không hiểu gì, nhưng ít ra cũng là cố gắng lớn của bạn, thì đừng khen “Bài này hay quá.” Thay vì vậy thì khen thật tình: “Chị bận thế mà cố gắng bỏ công sức viết bài này thật là quý.” Hoặc là, “Em cần đọc lại vài lần nữa để hiểu hết ý bài viết của chị.”

Khen dối, người bị hại đầu tiên là mình. Nói dối làm mình coi thường chính nhân cách của mình. Sau đó là hại bạn, vì nó cho bạn ăn bánh vẽ.

• Khi lời nói dịu dàng thân thiện của mình bên ngoài và tư tưởng của mình bên trong là một – đó là Thiền.

Và đó là “Giọng nói của hạnh phúc”.

Trần Đình Hoành dịch và bình.

Sunday, November 9, 2014

DENIS DIDEROT'S QUOTES

Ở bất cứ đất nước nào mà tài năng và đức hạnh không có sự tiến bộ, tiền bạc sẽ là thần thánh.

Người dân hoặc có tiền hoặc khiến người khác tin rằng mình có tiền.

Sự giàu sang sẽ là đức hạnh cao quý nhất, nghèo khó là sự xấu xa thấp hèn nhất.

Người có tiền sẽ thể hiện điều đó theo mọi cách có thể. Nếu sự phô trương đó không vượt qua tài sản của họ, mọi thứ vẫn ổn. Nhưng nếu sự phô trương đó vượt qua tài sản của họ, họ sẽ hủy diệt chính mình.

Trong đất nước ấy, những cơ đồ lớn nhất sẽ biết mất trong nháy mắt.

Người không có tiền sẽ tự hủy diệt mình trong nỗ lực tuyệt vọng để che dấu sự nghèo khó.

Đó cũng là một sự sung túc: dấu hiệu giàu sang bên ngoài cho số ít, mặt nạ che sự nghèo khó cho số đông, và nguồn tha hóa cho TẤT CẢ.

In any country where talent and virtue produce no advancement, money will be the national god.

Its inhabitants will either have to possess money or make others believe that they do.

Wealth will be the highest virtue, poverty the greatest vice.

Those who have money will display it in every imaginable way. If their ostentation does not exceed their fortune, all will be well. But if their ostentation does exceed their fortune they will ruin themselves.

In such a country, the greatest fortunes will vanish in the twinkling of an eye.

Those who don't have money will ruin themselves with vain efforts to conceal their poverty.

That is one kind of affluence: the outward sign of wealth for a small number, the mask of poverty for the majority, and a source of corruption for all.

ZEN MASTER THICH NHAT HANH'S QUOTES


You must love in such a way that the person you love feels free.

Sư Ông - Thiền Sư - Zen Master Thích Nhất Hạnh.

HÃY CẨN THẬN VỚI ẤN TƯỢNG BAN ĐẦU VỀ NGƯỜI KHÁC

CHƯƠNG 5:  QUAN ĐIỂM CỦA ĐỨC PHẬT VỀ CÁC MỐI QUAN HỆ
 
Hãy Cẩn Thận Với Ấn Tượng Ban Đầu Về Người Khác

Trong khi Đức Phật bác bỏ các tiêu chuẩn dựa trên quan niệm cổ hủ để chọn lựa người giao tiếp, Ngài cũng không tán đồng sự lựa chọn dựa trên những ấn tượng ban đầu và tình cảm ban sơ. Thí dụ, một số người có thể rất khéo léo trong việc tỏ ra họ là người hoàn toàn thích hợp cho một mối liên hệ hoàn hảo. Nhưng chúng ta cần kiềm chế việc vội vàng kết luận rằng sự tự phác họa đó của họ là phản ánh chân thực về bản chất thực sự của họ.

Đức Phật đã nói hai câu kệ sau đây để tóm tắt nhận định này:

 Không thể biết rõ tha nhân bằng vẻ bề ngoài của họ,

 Mà cũng khó tin tưởng họ sau ấn tượng ban đầu.

 Đúng vậy, kẻ vô đạo đức có thể rong chơi khắp nơi 

 Trong bộ áo của người đạo đức.

 Có người điểm trang thói xấu của mình

 Bằng hành động thanh cao giả dối

 Giống như đôi bông tai bằng đồng, bằng đất

 Được tô vàng sáng chói.[7]

Thêm nữa, vẻ bề ngoài của ai đó cũng không phải là một tiêu chuẩn đáng tin cậy để dựng nên một chân dung thực sự của họ. Để nói đến vẻ bề ngoài, Đức Phật dùng thuật ngữ vannarupa, có cả hai nghĩa là “vẻ bề ngoài”, và “hành vi”. Kể cả vẻ bề ngoài đứng đắn và hành động có văn hóa cũng không đủ để đánh giá một con người. 

Ngoài ra, sự quen biết ngắn ngủi cũng không thể giúp ta hiểu biết rõ ràng về ai đó. Đức Phật dùng thuật ngữ ittaradassana, có nghĩa đen là “thấy ít”, để ám chỉ một cuộc tiếp xúc, gặp gỡ ngắn ngủi. Thật vậy, một cuộc tiếp xúc ngắn ngủi không thể phản ánh hành vi, tư duy thực sự của một người, vì trong một thời gian ngắn, người ta có thể che dấu bản chất thực sự của họ một cách khéo léo.

Tuy nhiên, hãy nhớ rằng lời khuyên này không có nghĩa rằng những người dễ thương, lịch sự lúc mới quen biết rất đáng nghi ngờ –vì những người bản tính hòa nhã có thể ngay lập tức biểu lộ bản chất của mình như thế.

 [7]Tương Ưng Bộ Kinh I: Kosala Samyutta: Kinh Sattajatila 173 - 174.

THE BUDDHA'S TEACHINGS – LỜI DẠY CỦA ĐỨC PHẬT




  • Tên sách: LỜI DẠY CỦA ĐỨC PHẬT.
  • Tác giả: Tỳ kheo tiến sĩ Basnagoda Rahula.
  • Dịch giả: Diệu Liên Lý Thu Linh - Diệu Ngộ Mỹ Thanh.
  • Ngôn ngữ: Việt Nam.
  • Số trang: 328
  • Nhà xuất bản: NXB Tôn Giáo.
  • Năm xuất bản: 2010.
  • Phân loại: Giảng Luận.
  • MCB : 12010000009501
  • OPAC:
  • Tóm tắt:
Lời Giới Thiệu

Tôi phải thú nhận rằng đường như có điều gì không ổn khi một người suốt đời sống trong thế tục như tôi lại biết lời giới thiệu cho một quyển sách về triết học Phật Giáo, giáo lý của Đức Phật về sự thành đạt, trí tuệ và bình an nội tâm. Quan điểm của tôi về tôn giáo đã bị chỉ trích nhiều, vì tôi tin rằng hầu hết các tôn giáo đều là một hình thức tâm bị nhiễm virus làm lây nhiễm chúng sinh bình thường mạnh khỏe - và thường là có tri thức.

Chỉ có triết học Phật Giáo, giáo lý Phật Giáo dường như cách biệt với các tôn giáo khác vì tính chất cởi mở, uyển chuyển và thực dụng. Do đã sống hơn nửa thế kỷ ở Sri Lanka, tôi dã thấy triết học Phật Giáo, giáo lý của Đức Phật được áp dụng như thế nào bởi nhiều thành phần xã hội, bằng nhiều phương cách khác nhau. Dầu nghe có vẻ lạ nhưng những người hoàn toàn có lý trí và những người bảo thủ đều cho rằng niềm tin và thái độ của mình đều từ một nguồn gốc mà ra. Rõ ràng là người ta đã khá dễ dãi với các lời dạy nguyên thủy của Đức Phật.

Đó là lý do khiến tôi rất hoan nghênh sự ra đời của quyển sách này, do Tỳ kheo Tiến sĩ Basnagoda Rahula viết, nhằm mục đích khám phá trở lại những nguyên tắc và giá trị của triết học Phật Giáo, giáo lý Phật Giáo đã bị nhiều thế kỷ của văn hóa và lịch sử che mờ.

Nhiêu năm trước đây, tôi vinh dự được quen biết với Tiến sĩ Walpola Rahula quá cố, một trong những người thật sự uyên bác, uyên thâm mà tôi đã được gặp. Ngài đã tranh đấu cam go và dài lâu để loại bỏ các nghi lễ không cần thiết và những hoang đường trong Phật Giáo. Tôi hy vọng rằng Tỳ kheo Rahula đương thời sẽ tiếp tục nhiệm vụ cao quý đó, vì vẫn còn rất nhiều việc phải làm.

ARTHUR C. CLARKE
Đại học Cộng Đồng King, London, England.

THE BUDDHA'S TEACHINGS – LỜI DẠY CỦA ĐỨC PHẬT



LỜI DẠY CỦA ĐỨC PHẬT

Về Sự Thành Tựu Trong Gia Đình, Nơi Công Sở, Ngoài Xã Hội

Tác giả:  Tỳ kheo tiến sĩ Basnagoda Rahula.

Chuyển ngữ sang tiếng Việt: Diệu Liên Lý Thu Linh, Diệu Ngộ Mỹ Thanh.

CHƯƠNG 5:  QUAN ĐIỂM CỦA ĐỨC PHẬT VỀ CÁC MỐI QUAN HỆ

Không phải vẻ bề ngoài hay một ấn tượng tốt đẹp thoáng qua, thể hiện hình ảnh thực sự của một con người.[1]

(Tăng Chi Bộ Kinh)

Sự chọn lựa kỹ càng người để chúng ta giao tiếp thân mật, gần gũi là điều cực kỳ quan trọng trong triết học Phật giáo, giáo lý của Đức Phật đối với người cư sĩ. Thật ra, Ngài đã có lần khuyên các đệ tử của mình hãy chọn một cuộc sống độc cư, giống như cuộc sống của một ‘con độc giác cô đơn’, nếu họ không thể tìm được những người thích hợp để làm bạn[2].

Đức Phật đã nhấn mạnh rằng việc khéo chọn lựa các mối liên hệ mật thiết là quan trọng vì nó đóng góp vào việc thiết lập những mối liên hệ thân ái và bền vững. Để chọn người thích hợp, Đức Phật đã đề ra một quy trình bao gồm một số giai đoạn. Các giai đoạn này đã được nhắc đến xuyên suốt trong các kinh tạng. Chúng được tổng hợp ở đây để giúp chúng ta có một sự hiểu biết thấu đáo về lời Đức Phật dạy trong việc chọn lựa bạn hay các mối tương giao như thế nào.

Những lời hướng dẫn này không có ý khuyên ta nên xa lánh những người “không thích hợp”. Đức Phật chẳng bao giờ cho phép đệ tử của Ngài được trách cứ người thô lỗ, khó chịu, hoặc không tương xứng. Trái lại, Đức Phật khuyên họ phải hiểu bản tính của người đó, để thể hiện lòng bi mẫn và để dành cho người đó một cơ hội để sửa đổi. Tuy nhiên, khả năng tương thích là một điều kiện quan trọng trong việc chọn người để kết thâm giao. Triết học Phật giáo, giáo lý của Đức Phật nhằm làm cho nỗ lực này được dễ dàng.

[1] Câu trích từ Samyutta Nikaya I (Tương Ưng Bộ Kinh): Kosala Samyutta: Kinh Sattajatila, 173 -174.

[2] Sutta Nipata (Kinh Tập): Phẩm Uraga: Kinh Khaggavisana.
 


Monday, November 3, 2014

TIẾNG THÉT CỦA PHẬT HOÀNG TRẦN NHÂN TÔNG

Trần Nhân Tông – 陳仁宗( 7/12/1258 – 16/12/1308) là vị hoàng đế thứ 3 của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam. Người trị vì 15 năm (1278 – 1293) và làm Thái Thượng hoàng 15 năm.

Ngài được sử sách ca ngợi là một trong những vị vua anh minh nhất trong lịch sử Việt Nam, có vai trò lãnh đạo quan trọng trong Chiến tranh Nguyên Mông – Đại Việt lần 2 và lần 3.

Trần Nhân Tông là vị hoàng đế nằm trong danh sách 14 anh hùng dân tộc tiêu biểu nhất của Việt Nam.

Sau khi nhường ngôi cho con trai là Trần Anh Tông, Ngài xuất gia tu hành tại cung Vũ Lâm, Ninh Bình. Sau đó, Ngài rời đến Yên Tử (Quảng Ninh) tu hành và thành lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử (còn gọi là phái thiền Trúc Lâm hay Trúc Lâm Tam tổ), lấy đạo hiệu là Điều Ngự Giác Hoàng (hay Trúc Lâm đầu đà). Người là tổ thứ nhất của dòng Thiền Việt Nam này. Về sau Ngài được gọi cung kính là "Phật Hoàng" nhờ những việc này.

Ít lâu sau, Ngài từ Yên Tử trở về, nhìn qua cuốn sổ ghi chép việc vua con phong quan, Người đã cầm cuốn sổ đó vất ra giữa sân. Và thét lên, tiếng thét còn nhói đau cho đến tận bây giờ, dù khoảng 700 năm đã trôi qua:

- Đất nước bé bằng bàn tay, quan nhiều như thế, dân làm sao sống nổi(!).

- ĐẤT NƯỚC BÉ BẰNG BÀN TAY, QUAN NHIỀU NHƯ THẾ, DÂN LÀM SAO SỐNG NỖI(!).