CON
NGƯỜI CÓ THỂ THẤU HIỂU ĐƯỢC TỰ TÍNH CỦA THỰC TẠI?
Trong lịch sử triết
học phương Tây, triết gia người Deutschland/ Đức Quốc nổi tiếng trả lời dứt
khoát:
- Không!
Đó là triết gia
Immanuel Kant.
Nhà vật lý Werner
Heisenberg, một trong những yếu nhân tạo dựng nền Vật lý Cơ học Lượng tử và
Niels Bohr, là hai trong những nhà vật lý lỗi lạc, vĩ đại theo trường phái Vật
lý Công cụ – trường phái Copenhagen – có những phát biểu rất thú vị.
Werner Heisenberg
phát biểu:
- Điều mà ta quan sát
thấy không phải tự tính đích thực của thiên nhiên mà là thiên nhiên hiện ra
dưới cách vấn hỏi của ta.
- Nguyên tử không
phải là vật.
Niels Bohr tổng kết
sau nhiều năm làm việc với nền khoa học này:
- Không hề có một thế
giới lượng tử, chỉ có một sự mô tả lượng tử trừu tượng.
Henri Poincaré, triết
gia lỗi lạc, nhà toán học vĩ đại của Pháp Quốc, người được xem là nhà bác học
“vạn năng” – universalist – xuất sắc trong mọi ngành khoa học và triết học –
cuối cùng của thế kỷ 20, một người thuộc phái công cụ, đã ví chúng ta như những
người tiền sử ngồi trong hang động. Họ nhìn bóng hình mình do ánh sáng bên
ngoài chiếu lên vách hang và cho những hình bóng đó là “thế giới khách quan”.
Ẩn dụ của Poincaré đã quá rõ rang, thế giới chỉ là tâm thức của con người đang
phản chiếu.
ĐỊNH LÝ BẤT TOÀN –
INCOMPLETENESS THEOREM
Kurt Gödel (28.4.1906
– 14.1.1978) là một nhà toán học và logic học nổi tiếng người Austria, người đã
được tờ tạp chí danh tiếng TIME bình chọn là nhà toán học lớn nhất thế kỷ 20.
Ông là tác giả của
định lý nổi tiếng trong toán học: "Định Lý Bất Toàn" –
“Incompleteness Theorem” – là một định lý được giới khoa học so sánh với thuyết
tương đối của Einstein và nguyên lý bất định của Heisenberg.
Định lý này khẳng
định rằng bất kỳ một hệ tiên đề hình thức độc lập nào đủ mạnh để miêu tả số học
cũng hàm chứa những mệnh đề không thể khẳng định mà cũng không thể phủ định.
Định lý này đã được
chứng minh vào năm 1930 và công bố một năm sau đó. Định lý Bất Toàn đã đập tan
niềm tin tuyệt đối của các nhà toán học vào sức mạnh của các công cụ hình thức
vốn được đề xuất bởi nhà toán học người Deutschland David Hilbert và các cộng
sự nhằm loại bỏ những mâu thuẫn và nghịch lý ra khỏi toán học.
Những lời giải thích
của GS Trịnh Xuân Thuận về “ĐỊNH LÝ BẤT TOÀN”.
GS Trịnh Xuân Thuận:
- Định lý Godel quả
thật bao hàm những giới hạn cho việc suy luận hợp lý. Định lý này thường được
xem là khám phá hợp lý quan trọng nhất trong thế kỷ 20. Năm 1900, nhà toán học Hilbert
đã thách thức là đã đặt được các môn Toán Học trên một nền tảng hợp lý vững
chắc.
- Kurt Godel đã chấp
nhận lời thách thức đó nhưng không phải theo chiều hướng mà Hilbert hiểu. Ông
ta đề nghị vào năm 1931, một định lý lạ lùng và bí hiểm nhất về toán học.
- Kurt Godel chỉ ra
rằng một hệ thống số học mạch lạc và không mâu thuẫn nhất định gồm có những
định đề không quyết định được, có nghĩa là không thể dùng luận lý mà nói chúng
đúng hay sai. Mặt khác không thể chứng minh rằng một hệ thống là mạch lạc và
không mâu thuẫn chỉ trên căn bản các nguyên lý toán học, là những tiên đề đầu
tiên được chấp nhận mà không cần chứng minh, nằm trong hệ thống đó. Muốn làm
được việc chứng minh ấy, cần phải đi ra ngoài hệ thống và sử dụng những công lý
phụ bên ngoài hệ thống. Và như vậy hệ thống đó là bất toàn.
- Và cũng vì thế mà
định lý Godel thường được gọi là “Định Lý Bất Toàn”.
- Định lý này đã có
tác dụng như một cú sét đánh trong giới toán học. Kurt Godel đã chứng minh rằng
luận lý có giới hạn và ước mơ của Hilbert muốn chứng minh sự mạch lạc của mọi
môn toán học chỉ là một ảo tưởng. Định lý Godel lại còn có tác động lên nhiều
lãnh vực tinh thần khác như triết học và công nghệ thông tin.
- Về triết học, thì
nó cho thấy tư tưởng hợp lý không phải là không có giới hạn.
- Về công nghệ thông
tin, nó hàm ý rằng có nhiều bài toán học không bao giờ được giải quyết bằng
computer.
Karl Raimund Popper
(1902–1994), triết gia người Austria, cho rằng một lý thuyết không bao giờ có
thể được chứng minh là đúng tuyệt đối vì không bao giờ ta thử nghiệm được hết
mọi khả năng xảy ra cho lý thuyết đó. Lý thuyết đó chỉ được xem là “chưa sai”. Ngược lại, một trường
hợp duy nhất không tương thích với lý thuyết đủ chứng minh là lý thuyết sai.
No comments:
Post a Comment