Đức Phật dạy:
Nghèo khó khiến chúng sinh, con người khổ đau.
Vì nghèo, họ phải mang nợ.
Hoàn cảnh này khiến đời sống họ tụt hậu.
Quan điểm của Đức Phật về sự phát đạt, sung túc được coi là một trong
những khía cạnh thường bị hiểu lầm nhất trong giáo lý của Đức Phật.
Nhiều tác giả đã tuyên bố thẳng hay ám chỉ rằng Đức Phật không khuyến khích người cư sĩ thăng tiến và trở nên giàu có.
(Cư sĩ: người có niềm tin vào Phật pháp nhưng sống tại gia đình như
những người khác, giữ Ngũ giới: Không sát sinh – Không trộm cắp – Không
tà dâm (Ngoại tình với vợ/chồng người khác) – Không lừa gạt người khác –
Không uống rượu bia đến mức độ không kiểm soát được tâm trí của mình.)
Quan niệm sai lầm này khiến chúng ta thường nghĩ rằng khi
thành đạt hay được sung túc là đi ngược lại với lời dạy của Đức Phật.
TỰ DO THÀNH ĐẠT
Trước hết, Đức Phật chẳng bao giờ áp đặt bất cứ sự hạn chế nào trên
các nỗ lực để thành công của hàng cư sĩ; trái lại, Đức Phật còn
khuyến khích họ cố gắng đạt được thành công. Dầu trong ‘kinh doanh,
nuôi gia súc, làm thủ công, làm công chức, hay bất cứ ngành nghề, công
nghiệp nào', người cư sĩ cũng phải cố gắng để thăng tiến trong lãnh vực
ngành nghề nghiệp của mình. Nhất là quyết tâm để đạt được thành
công, đó là điều tiên quyết, quan trọng trong cuộc đời của bất cứ ai –
và thái độ ‘tôi có công việc làm để kiếm sống là đủ rồi’, không có mặt
trong giáo lý của Đức Phật.
Kế đến, Đức Phật cũng không giới hạn
tài sản mà người cư sĩ có thể sở hữu và chẳng bao giờ khuyên hàng
cư sĩ tại gia giàu có của Đức Phật phải dừng lại hay giảm thiểu tài
sản của họ. Trái lại, Đức Phật đã dứt khoát khuyên họ phải có kế
hoạch, phải biết tổ chức và phải nỗ lực để thành công hơn nữa.
Ở đây, chúng ta thấy rằng Đức Phật không đặt ra một chế định nào đối
với tài sản cá nhân của người cư sĩ. Sử dụng thuật ngữ ‘tài sản lớn’
(ulare bhoge), Đức Phật muốn nói đến số lượng mà ta có thể hướng
tới để đạt được – nói cách khác, càng nhiều của cải, tài sản càng
tốt.
SỰ THÀNH ĐẠT VÀ MỤC ĐÍCH CỦA NÓ
Điều quan trọng
cần nhớ là sự tự do mà Đức Phật dành cho người cư sĩ, để họ
trở nên càng phát đạt, sung túc càng tốt, dựa vào hai điều
kiện.
- Thứ nhất, chúng ta phải tuân theo một số nguyên tắc trong nỗ lực để làm giàu.
- Thứ hai, ta phải sử dụng tài sản một cách đúng đắn.
Nếu hai điều kiện trên không được thỏa mãn, thì “tài sản lớn’
đó sẽ không bao giờ được Đức Phật chấp nhận – như thế “sự tự
do vô hạn” để được giàu có, phát đạt, ám chỉ số lượng tài
sản chứ không phải phương tiện sử dụng để đạt được nó. Hơn
thế nữa, chẳng bao giờ nên coi sự thành đạt, giàu sang là mục
đích tối hậu, mà chỉ là một phương tiện để đưa ta đến những
mục đích cao thượng hơn.
Đức Phật đã nói đến cả hai
vấn đề, sự tự do cá nhân để thành đạt và sự quan trọng của
việc sử dụng tự do đó một cách đúng đắn như sau:
Niềm
hạnh phúc của việc sở hữu tài sản là gì? (Atthi sukha -the
happiness of possessing wealth). Một số người tích lũy tài sản
lớn và của cải dồi dào bằng những phương tiện chính đáng, nỗ
lực tinh tấn, và nghĩ rằng, “Giờ tôi đã có của cải, có tài
sản bằng những phương tiện chính đáng!”
Khi nghĩ như thế, người đó cảm thấy hạnh phúc, hài lòng. Đó là điều mà ta gọi là atthi sukha.
Rõ ràng là việc sở hữu tài sản cá nhân được chấp nhận,
miễn là người cư sĩ đã sử dụng những “phương tiện chân chính
và tinh tấn nỗ lực”.
HÚT MẬT MÀ KHÔNG LÀM HẠI ĐẾN HOA
Đức Phật đã giới thiệu cho người cư sĩ một hệ thống đạo đức
trong quá trình tích lũy tài sản. Dĩ nhiên, các giới luật
của Đức Phật nói chung – như kêu gọi lòng từ bi đối với kẻ
khác - đều được áp dụng trong bất cứ lĩnh vực nào nhưng Đức
Phật cũng đặt ra những điều cụ thể, liên quan đến vấn đề kinh
doanh.
Trước hết, người tham gia vào việc làm ra của cải
không được gian dối hay làm hại khách hàng hay bất cứ người
nào khác có liên quan. Người đó làm ‘tăng trưởng tài sản dần
dần chứ không chèn ép người khác, cũng như các chú ong hút
mật mà không làm hại hoa. Như thế, bất cứ tài sản nào mà ta
sở hữu cần phải đạt được “bằng các phương tiện chân chính”.
Công bằng, chân chính là những yếu tố rất quan trọng trong việc
tạo ra của cải, đến nỗi trước khi bắt tay vào việc kinh doanh
hay hành một nghề nghiệp đầy hứa hẹn nào, ta cần phải thệ
nguyện không lạm dụng người khác.
Lời dạy của Đức Phật
đối với sự chăm sóc cho công nhân, người làm công, càng thể
hiển rõ hơn con đường đi đến sự thành đạt, làm giàu một cách
danh dự. Cụ thể, Đức Phật đã nói đến năm điều mà người chủ
cần phải quan tâm trong việc đối xử với người công nhân của
mình:
- Giao công việc và bổn phận tùy vào khả năng và sức lực của họ.
- Trả tiền lương phù hợp với công việc và dịch vụ của họ.
- Có phương tiện chăm sóc sức khỏe cho họ.
- Tạo thực dưỡng cho họ.
- Cho họ được nghỉ phép vào thời điểm thích hợp.
Các tư duy mới mẻ, tốt đẹp này lần nữa xác định rằng giáo
lý của Đức Phật đã dạy, người kinh doanh không đáng được có
của cải, tài sản nếu họ không tuân theo các nguyên tắc kinh
doanh đạo đức. Trong bất cứ nỗ lực để sinh lợi nào, người
chủ cần phải kiềm chế không ép buộc người khác phải lao động
nặng nhọc quá sức. Phải trả đồng lương xứng đáng cho công nhân
của mình và tạo điều kiện để họ được chăm sóc sức khỏe
miễn phí, được ăn uống đầy đủ và được nghỉ ngơi. Dựa trên
quan điểm của Đức Phật, những ai không tạo điều kiện tốt đẹp,
không chăm sóc cho công nhân của mình thì không xứng đáng được
giàu sang, lợi lộc.
Nói chung, các vị doanh nhân, những
người muốn tạo ra của cải, muốn thăng tiến được nhắc nhở phải
chánh niệm về đạo đức của họ. Các vị doanh nhân, trong vai
trò lãnh đạo, phải làm hài lòng khách hàng của mình, đồng
thời phải bảo vệ quyền lợi của công nhân. Nếu họ tuân theo
những điều này, ít nhất họ cũng phần nào xứng đáng để được
phát đạt hơn. Một điều kiện khác nữa để được phát đạt là
việc sử dụng tài sản một cách đúng đắn.
TÀI SẢN GIỐNG NHƯ MƯA NUÔI DƯỠNG CUỘC SỐNG
Đức Phật nhấn mạnh rằng tài sản mà người ta có được bằng
những phương tiện chân chính, cần được sử dụng để mang lại lợi
ích cho người và cho bản thân:
Người cư sĩ đã tích lũy
được tài sản lớn bằng nỗ lực, khả năng, tinh tấn, và quan tâm
đến việc sử dụng đúng đắn [tài sản đó] để thỏa mãn nhu cầu
bản thân và tự tại trong lòng. Khi sử dụng tài sản đó, người
đó có được hạnh phúc trong cuộc đời. Đồng thời, người đó
khiến cho cha mẹ, gia đình [chồng hay vợ và con cái] và những
người làm cho mình cũng được hạnh phúc và thỏa mãn.
Kế
đến, người đó phải dùng tài sản của mình để giúp đỡ bạn
bè và đồng sự. Vị ấy cũng phải dùng tài sản của mình để
làm vừa lòng thân quyến và những người cần được giúp đỡ, để
cúng kiếng các thân quyến đã qua đời, để làm tròn bổn phận
công dân đối với chính phủ, và để thực hiện các nghi lễ.
Cuối cùng, vị ấy cần sử dụng của cải của mình để cúng
dường cho các vị Tì kheo và Bà-La-Môn, những người đã dốc cả
cuộc đời cho mục đích thanh tịnh bản thân và đạt được Giác
Ngộ.
Đức Phật luôn nhấn mạnh rằng sự nỗ lực của một
người cần có ý nghĩa đối với bản thân, đối với những người
cùng chung sống, và nói rộng hơn, là đối với cả xã hội. Việc
“sử dụng tài sản một cách đúng đắn” thể hiện giáo lý căn
bản này của Đức Phật.
Người không sử dụng của cải, tài
sản của mình một cách khôn khéo như thế sẽ không được Đức
Phật chấp nhận. Vua Kosala đã bạch với Đức Phật rằng ông (nhà
vua) đã vừa được sở hữu tài sản khổng lồ của một doanh nhân,
người vừa qua đời mà không có con cái thừa tự. Chỉ riêng
vàng của vị đó là vô cùng giá trị; nhưng bản thân vị đó, lúc
nào cũng mặc áo vá, ăn gạo hẩm, sử dụng phương tiện xe cộ
đơn sơ, và chẳng bao giờ sử dụng của cải của mình vì ích lợi
của người khác. Nghe chuyện, Đức Phật nói rằng người mà
không sử dụng tài sản của mình để làm lợi ích cho bản thân
và tha nhân, đã sống một cuộc đời vô nghĩa.
Trái lại,
những người sử dụng tài sản, của cải của mình để làm lợi
ích cho bản thân và người khác thì được Đức Phật tán thán.
Giống như “mưa rào để nuôi dưỡng cuộc sống”, có được tài sản
cá nhân lớn lao là để sử dụng, và bảo dưỡng cho số đông
người.
Mục đích của chúng ta trong việc tạo ra tài sản
là để sử dụng chúng cho có ích. Người nào biết tuân giữ
điều này, Đức Phật cho rằng người đó có quyền nỗ lực hết
sức để được có thêm của cải.
Đức Phật đã khuyên ta cần chia tài sản của mình làm bốn phần bằng nhau:
- Hai phần để kinh doanh.
- Một phần để tiết kiệm.
- Phần còn lại là cho phí sinh hoạt.
Đức Phật không khuyên ta dùng hết tài sản của mình vào việc
tiêu xài và bố thí (làm từ thiện). Ngài coi việc tiết kiệm là
điều cần thiết vì “tiền tiết kiệm có thể được sử dụng trong
trường hợp có tai nạn hay những điều bất trắc không ngờ trước
xảy ra”.
Chỉ một trong bốn phần của tài sản là được
khuyên nên sử dụng cho các chi phí cá nhân và bố thí. Nói
cách khác, Đức Phật khuyên chúng ta chỉ nên dùng một phần tài
sản để làm thỏa mãn bản thân và người khác, chứ không phải
tất cả những gì ta có được.
Câu trích ở trên cũng công
nhận rằng việc chăm sóc con cái, bảo vệ quyền lợi của người
làm, và trả một phần lợi tức cá nhân cho chính phủ (đóng
thuế) là những điểm chính trong việc chi tiêu đúng cách. Những
kẻ không tuân theo các nguyên tắc này không đáng được phát đạt
hơn nữa. Do đó việc hoàn thành nghĩa vụ của mình đối với xã
hội cũng là một phần thực hành quan trọng của người cư sĩ
và việc dành một phần tài sản của mình cho xã hội biểu hiện
cách thực hành này.
Một câu cú quan trọng trong kinh
Parabhava cho ta thấy rõ hơn về sự nhấn mạnh của Đức Phật rằng
rằng tài sản cá nhân không chỉ dành cho bản thân. Khi nhắc
đến những dấu hiệu tha hóa của người cư sĩ, Đức Phật nói:
“Nếu một cá nhân sở hữu nhiều tài sản, vàng bạc và thực
phẩm mà chỉ dùng chúng cho bản thân, thì người đó đang trên
đường tụt hậu.”
Câu nói trên xác nhận việc Đức Phật
không chấp nhận một người giàu có mà không quan tâm đến xã
hội. Sử dụng tài sản “cho bản thân”, hàm ý chỉ việc sử dụng
tài sản riêng cho cá nhân hay cho những người thân thiết của
mình. Vì người được giàu có chắc chắn là phải mang nợ xã
hội mới có được sự sản, nên bắt buộc là họ phải đóng góp
trở lại cho xã hội thay vì chỉ sử dụng tài sản đó riêng cho
bản thân.
Đức Phật tán thán những người “tích lũy tài
sản lớn, nhưng không bị đắm chìm trong đó”, trong khi những kẻ
vượt quá giới hạn của việc thỏa mãn dục lạc, “Sau này sẽ
khổ đau do những hậu quả tai hại mà nó mang đến.” Ý thức
đến giới hạn của việc thỏa mãn dục lạc là ý thức đến mức
độ mà hậu quả của nó sẽ ảnh hưởng thế nào đến việc được
có sức khỏe và sống lâu. Điều cốt yếu ở đây là “mức độ vừa
phải”: mức độ vừa phải là giới hạn giúp ta có được sức
khỏe, thân không bịnh hoạn, tâm thư thái và được xã hội chấp
nhận.
No comments:
Post a Comment