Hai giáo sư Claus Wedekind và Manfred Milinski ở đại học Bern, đã làm một
cuộc thí nghiệm về tính thiện, lòng tốt, tính vị tha và tâm bi mẫn của của con
người. Bản báo cáo của họ vào năm 2000 ngày nay đã trở thành một công trình “cổ
điển”. Làm việc thiện tức là việc ích lợi cho người khác và thế nào mình cũng
chịu tốn kém một chút nào đó. Mục đích cuộc thí nghiệm của hai ông là xem tại
sao có nhiều người thích làm việc thiện dù không được đáp lại. Hai ông dùng một
lý thuyết sinh học là “đền đáp gián tiếp” – indirect reciprocity.
Bình thường, ai làm việc tốt cho mình thì chúng ta báo đáp. Trong quan hệ
trực tiếp giữa hai cá nhân, hiện tượng vay trả, đáp ứng (reciprocity), có đi có
lại, là chuyện thường diễn ra và dễ hiểu. Nhưng chúng ta cũng hay làm những
việc tốt lành cho những người hoàn toàn hoàn toàn xa lạ; cho những người mình
chỉ gặp gỡ tình cờ và không nghĩ trong đời sẽ còn gặp lại.
Giáo sư Claus Wedekind và Manfred Milinski đã bày ra một “trò chơi” nhờ
các sinh viên tham dự vào một cuộc thí nghiệm để tìm hiểu hiện tượng “đền đáp
gián tiếp” có thật sự thể hiện hay không. Họ được 80 sinh viên cộng tác, mỗi
người ngồi trước máy tính, coi như được phát một số đồng France tiền Thụy Sĩ
(Switzerland). Họ có quyền phát tiền cho một người bạn tham dự cuộc chơi. Mỗi
lần mỗi sinh viên lại cho tiền một người khác nhau, mỗi người chơi không biết
ai là “đối tác” của mình; trên màn ảnh máy vi tính chỉ biết là đối tác đó đã
từng phát tiền cho người khác bao nhiêu lần.
Kết quả cho thấy thuyết “đền đáp gián tiếp” – “indirect reciprocity” được
thể hiện. Nếu thuyết đó không đúng, tức là các sinh viên quyết định đem tặng
tiền cho người khác một cách hoàn toàn ngẫu nhiên, thì khi trò chơi kết thúc,
số tiền vốn của mọi người sẽ gần như bằng nhau. Nhưng sau cùng, khi tổng kết xem
mỗi người còn bao nhiêu tiền, người ta thấy những sinh viên nào hay đem tiền
cho người khác nhất cũng là những sinh viên nhận được nhiều hơn các bạn khác.
Nhưng tất nhiên trong nhân loại có những người vị tha hơn người khác và
ngược lại có người thường chỉ nghĩ đến mình (ích kỷ). Hành vi của họ khác nhau
như thế nào khi biết rằng những người có tiếng vị tha có thể được đền đáp?
Một cuộc nghiên cứu khác, công bố năm 2008 trên tạp chí Social Psychology
Quarterly, của hai giáo sư Brent Simpson và Robb Willer ở Hiệp Chúng Quốc
(U.S), đã tìm hiểu kỹ hơn về tác phong của con người trong hoàn cảnh có sự đền
đáp gián tiếp.
Trong thí nghiệm này, người ta trắc nghiệm trước các đối tượng để xếp
loại những người có khuynh hướng vị kỷ trong một nhóm, nhóm kia là những người
được xếp loại vị tha. Khi tham dự cuộc chơi mà biết rằng các hành động thiện
trong tương lai có thể được đền đáp thì những người vị kỷ phản ứng rất tích
cực. Ngược lại, những người vốn tính vị tha thì dù biết sau này có được đền đáp
hay không, họ cũng không chịu ảnh hưởng. Như vậy nghĩa là hành động hoàn toàn
vị tha là có thật; nhưng nhân loại không phải ai cũng vị tha. Thí nghiệm thêm
lần nữa, hai tác giả thấy rằng khi được chứng kiến ai có hành động thiện, thì
những người vị tha thường “tưởng thưởng” cho những người thiện đó nhiều hơn
những người có tính vị kỷ qua việc đền đáp gián tiếp.
Tạp chí Games and Economic Behavior tháng 11 năm 2009 đăng kết quả cuộc
nghiên cứu của ba giáo sư khác ở châu Âu, họ chia các đối tượng nghiên cứu làm
hai nhóm, một nửa thì mỗi lần “làm việc thiện” đều được báo cho mọi người biết,
một nửa thì hoàn toàn không. Kết quả cho thấy trong xã hội quả thật có hiện
tượng thuần túy “đền đáp gián tiếp.” Nhưng bên cạnh đó cũng có những người làm
điều thiện vì tính toán thiệt hơn, được mất.
Người ta cũng làm một thí nghiệm nữa: họ để trong ví (bóp) một ít tiền
(có thể 25 USD đến 50 USD), một số giấy tờ có địa chỉ của người chủ chiếc ví
(nhưng thông tin của chủ nhân là giả còn địa chỉ thật) rồi vất chiếc ví ra
đường. Hơn 68% (tức là hơn 2/3) chiếc ví đã được gởi trả lại theo địa chỉ của
chủ nhân chiếc ví (là các giáo sư làm thí nghiệm) và 80% người nhặt gởi trả lại
mà không ghi địa chỉ của mình.
Đức Dalai Lama 14 đã dạy những người vị tha giúp đỡ người khác vô vụ lợi
là những người có cái tâm bi mẫn.
His Holiness the 14th Dalai Lama - Đức Dalai Lama 14 dạy:
Nền tảng để phát khởi tâm nguyện cầu giác ngộ vì con người là
lòng bi mẫn, vốn có nhiều dạng khác nhau. [Khi bạn nghĩ rằng] thật tốt đẹp biết
bao nếu mọi con người đều thoát khỏi đau khổ thì đó là một dạng của lòng bi
mẫn. Còn có những cấp độ khác của lòng bi mẫn, không chỉ bao gồm ý tưởng này mà
còn có cả lòng lòng dũng cảm mạnh mẽ hơn. Tâm bi mẫn này tạo ra một quyết tâm
đặc biệt tự mình gánh vác trách nhiệm trừ dứt mọi khổ đau cho con người. Ngay
cả các bậc Thanh văn và Độc giác Phật cũng ước nguyện thiết tha rằng chúng sinh
– con người được thoát ly khổ đau. Tương tự, đôi khi chính chúng ta
cũng khởi lòng bi mẫn nghĩ rằng thật tốt đẹp biết bao nếu mọi người đều thoát
khỏi đau khổ. Chẳng hạn như khi thấy cảnh khốn cùng hay điều kiện bơ vơ của một
người hay một con vật nào đó, chúng ta khởi lên một cảm xúc bi mẫn mạnh mẽ, ước
mong rằng khổ đau của con người, con vật được dứt trừ.
Điều quan trọng cần lưu ý là, khi đối tượng của lòng bi mẫn là
một người mà chúng ta yêu thích thì sự thương cảm của chúng ta [có thể] dựa
trên sự tham ái hơn là lòng bi mẫn. Ngược lại, nếu bạn khởi tâm bi mẫn khi thấy
sự khổ đau của một người xa lạ vì nghèo khổ hay gặp cảnh khốn cùng hay gặp một
con vật lang thang, đói khát mà bạn chẳng có sự quyến luyến gì, thì đó mới
thuần túy là lòng bi mẫn.
No comments:
Post a Comment